A.
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Cũng như những loại hình nghệ thuật
khác văn học là một loại hình nghệ thuật khá đa dạng và độc đáo. Ngoài những chức
năng của mình, văn học luôn có mối quan hệ qua lại với các loại hình nghệ thuật
khác, đặc biệt là với hội họa. Không chỉ luôn hướng đến cái đẹp thẩm mĩ của cuộc
sống mà giữa văn học và hội họa gần như là hòa lẫn, đồng chất với nhau. Người
ta thường nói bài thơ nay “giống như một bức tranh”, hoặc cũng có khi nói bức
tranh nọ “giống như một bài thơ”. Quan niệm “thi họa đồng nhất” đã có từ rất sớm
ở phương Tây, ví như Simonios thời La Mã cổ đại đã nói: “họa là thơ không lời,
thơ là họa có lời” và Horace cũng đã từng nói “thơ như họa”, thơ là “họa vô
hình”, họa là “hữu hình thi” hay thơ là “hữu thanh họa”, họa là “vô thanh thi”.
Như vậy từ thời xưa con người đã phát hiện ra tính họa trong thơ, tính thơ
trong họa, xem thơ ca- hội họa là hai loại hình nghệ thuật gần gũi, có quan hệ
mật thiết với nhau. Không ít nhà thơ đã lấy cảm hứng sáng tác từ những tác phẩm
hội họa và ngược lại cũng có những tác phẩm lấy cảm hứng từ những bức tranh, những
phong cảnh thiên nhiên để bộc lộ tình yêu và tài năng miêu tả của mình. Về khía
cạnh này, ở Trung Quốc cũng đã có rất nhiều nhà thơ như Phùng Ứng Lựu thời Thanh nói: “Thiếu Lăng
hàn mặc vô hình hoạ, Hàn Cán đan thanh bất ngữ thi” (Thơ của Đỗ Phủ là hoạ vô
hình, tranh của Hàn Cán là thơ không lời)… Bởi vậy người ta còn dùng khái niệm
“vô thanh thi” để chỉ hội hoạ.
Trong
quá trình phát triển, thi và hoạ tiếp xúc, dung hợp với nhau trên một số phương
diện. Thơ ca cũng có tác dụng miêu tả, tái hiện như hội hoạ, mà hội hoạ cũng có
tác dụng biểu hiện như thơ ca, cho nên Tô Đông Pha mới bình rằng “thi trung hữu
hoạ, hoạ trung hữu thi” (trong thơ có hoạ, trong hoạ có thơ). Từ xa xưa thì ở
Trung Quốc đã nổi tiếng với các loại thơ đề tranh như thơ trên các tấm bình
phong, thơ đề trên quạt hay những bài vịnh tán tranh, tranh Thủy mặc trúc thụ
thạch... Cùng nền văn hóa Phương Đông và gần quốc gia Trung
Quốc, ở Việt Nam cũng có những ảnh hưởng
nhất định, trong giai đoạn văn học trung đại cũng không ít tác giả viết thơ như
họa. Những bức tranh mai, tùng, cúc, nguyệt, tuyết, sương, núi của các Thiền sư
thời Lí Trần, những bức tranh thủy mặc, những bài Vịnh thu của Nguyễn Khuyến, ở
giai đoạn này thi họa được phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành công rực
rỡ và luôn được phát triển về sau. Đặc biệt, trong giai đoạn văn học hiện đại
sau này, mặc dù văn học đi vào thực tế đời sống vào những nhu cầu của cuộc cách
mạng đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng không ít nhà thơ đã kết hợp độc đáo
nghệ thuật tạo hình trong thơ như Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Diệu
đã lấy cảm hứng từ cái đẹp và phụ nữ và đặc biệt trong giai đoạn văn học cách
mạng 1945- 1975 ngoài việc phản ánh chiến trường, con người trong đấu tranh, Tổ
quốc trong những năm khói lửa thì các đề tài ở chiến khu Việt Bắc trong thơ của
Tố Hữu vẫn dạt dào cảm xúc với thiên nhiên và con người ở núi rừng. Trong bài
thơ Việt Bắc của Tố Hữu thiên nhiên được phác họa như một bức tranh lung linh đầy
màu sắc của tình người và tình yêu cuộc sống. Nét nổi bật nhất được nhắc trên
trong bài thơ này đó không chỉ là những nhạc điệu tâm tình của người lính mà
còn có cả hồn thơ lãng mạn, những nét chạm vẽ, tạo hình đặc sắc trong nghệ
thuật cũng được nhắc đến. Với sự kết hợp tài tình giữ hội họa và thơ ca Tố Hữu
đã tạo nhiều bức tranh tuyệt đẹp. Đó không chỉ là bức tranh thiên nhiên với bốn
mùa mà còn là bức tranh về những cuộc hành quân ra trận, về chân dung Bác Hồ vĩ
đại trong những năm tháng đấu tranh. Có thể nói, trong bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu những hình ảnh đó là một vấn đề cần được xem xét và nghiên cứu nhiều hơn.
Đặc biệt ở bình diện nghệ thuật tạo hình là một nét nổi trội.
Và
là một tác gia không chỉ có tầm quan trọng trong nền văn học Việt Nam, được đưa
vào dạy ở chương trình trung học phổ thông nên việc nghiên cứu về những vấn đề
liên quan đến tác giả và tác phẩm là một việc làm hết sức cần thiết. Hơn thế
nữa, việc khai thác triệt để những yếu tố nghệ thuật, những phương thức biểu
hiện trong tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu còn góp phần khẳng định những giá trị
của thơ ca ông trong nền văn học Việt Nam. Đó cũng chính là lí do thôi thúc
chúng tôi chọn đề tài “Bút pháp hội họa trong tác phẩm Việt Bắc
của Tố Hữu dưới góc nhìn loại hình nghệ thuật”.
2. Mục đính nghiên cứu
Với
đề tài trên mục đích mà đề tài hướng đến không chỉ ra nêu bật vai trò của bút
pháp hội họa trong sáng tạo nghệ thuật văn học, mà thông qua đó khẳng định
những giá trị nghệ thuật trong phong cách thơ Tố Hữu khi vận dụng yếu tố hội
họa trong sáng tạo thơ ca.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập
trung nghiên cứu về bút pháp hội họa trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu dưới góc
nhìn một loại hình nghệ thuật.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung
nghiên cứu trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ngoài ra, để tạo sự sinh động cho
bài viết có thể liện hệ ở một bài thơ của chính tác giả Tố Hữu và một số tác
giả khác.
4. Đóng góp của đề tài
Nghiên
cứu đề tài “Bút pháp
hội họa trong tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu dưới góc nhìn loại hình nghệ thuật”, nhằm góp phần làm rõ đặc điểm của bút
pháp hội họa trong thơ ca và góp phần khẳng định những giá trị của thơ Tố Hữu
trong nền văn học Việt Nam. Bên cạnh đó với đề tài này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho học sinh- sinh
viên ngành văn học khi tìm hiểu về yếu tố hội họa trong thơ và góp phần mở ra nhiều khunh hướng khác cho những người
nghiên cứu đi sau.
5. Phương pháp
nghiên cứu
Thực hiện đề tài
người nghiên cứu tập trung vào những phương pháp sau đây:
-
Phương pháp tổng hợp- phân tích
-
Phương pháp chứng minh- dẫn chứng
-
Phương pháp so sánh- liên ngành
B.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG LÍ
THUYẾT LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm về nghệ thuật tạo hình trong
văn học
Tạo hình nghệ thuật trong văn học là
việc vận dụng các yếu tố và phương pháp tạo hình như màu sắc, ánh sáng, hình khối,
đường nét bằng ngôn ngữ để xây dựng nên hình tượng văn học{2; 196}. Và thông
qua các yếu tố đó tác động đến nhận thức cũng như xúc cảm của lòng người, tao
cho văn chương có một hình ảnh biểu hiện riêng mang tính độc đáo và nghệ thuật
đặc sắc.
1.2 Đặc điểm của nghệ
thuật tạo hình văn học
Đặc điểm của nghệ thuật tạo hình văn học
xuất phát từ những đặc trưng của văn học. Nếu văn học phản ánh thế giới bằng
hình tượng thì hình tượng đó chính là những hình thức của đời sống, là một nơi
tồn tại cụ thể, cảm tính, toàn vẹn, không lặp lại, mang hơi thở của sự sống.
Chính vì vậy tiếp xúc với hình tượng nghệ thuật là tiếp xúc với một thế giới đời
sống sinh động, có cây cỏ núi sông, nhà cửa, đồ vật, con người với ngoại hình,
cảm xúc hành động.... Nhưng muốn tái hiện lại những hình tượng đó trong văn học
thì buộc người sáng tạo nghệ thuật phải sử dụng những từ ngữ có tính tạo hình để
thể hiện. Chính vì thế mà nghệ thuật tạo hình trong văn học là nghệ thuật tái
hiện hình tượng.
Ngoài ra, để tái hiện một cách sinh động
và chính những hình tượng trong tác phẩm thì nhà văn, nhà thơ phải sử dụng tốt
các phương thức cũng như các biện pháp của tạo hình trong nghệ thuật hội họa vận
dụng vào tạo hình văn học. Đầu tiên đó là việc vận dụng các phương thức tạo
hình phải mang tính khách quan, khách thể. Thông qua lớp ngôn từ để tái hiện những
bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống một cách chân thực, mang lại niềm
tin, cảm xúc, tinh thần và ấn tượng của con người về bức tranh đó. Ví như Bức
tranh thiên nhiên vừa hùng vĩ, thơ mộng lại vừa hoang dại, dữ dội đầy nguy hiểu
của núi rừng Tây Bắc trong thơ Quang Dũng hay con sông Đà vừa hung bạo, hiểm trở
vừa hùng vĩ diễm lệ, trữ tình của Nguyễn Tuân. Đấy là những bức tranh thiên
nhiên có thật, với sự tài hoa trong sáng tạo các tác giả đã đưa đến cho bạn đọc
những cảm nhận sâu sắc và khách quan về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước. Đó còn
là tiếng nói thẫm mĩ của con người về thiên nhiên.
Phương thức tạo hình thứ hai là phải
miêu tả được những sự vật, hiện tượng hoặc những đồ vật xung quanh đời sống con
người. Miêu tả được những sự vật, cảnh vật xung quanh sự vật mình nói đến sẽ tạo
được không gian và cả hình nền cho bức tranh. Tạo sự sinh động và có tính chân
thực hơn.
Ngoài những phương thức đó thì nghệ
thuật tạo hình trong văn học còn tuân thủ các biện pháp tạo hình sau: Đầu tiên
là sự kết hợp các âm thanh của ngôn ngữ phải có sự gieo vần, những từ ngữ phải
tạo được xúc cảm, đọc lên gây được những cảm giác tạo hình. Các thanh điệu phải
gợi được cảm giác nặng nề, mệt mỏi, ảm đạm, khó khăn, khấp khểnh hoặc nhẹ nhàn.
Thông qua những lớp ngữ nghĩa của từ với các phương thức của nghệ thuật tạo
hình, chúng ta có thể nắm bắt được khả năng tạo hình của hình tượng nghệ thuật.
Thứ hai đó là sự kết hợp hài hòa các đường nét, màu sắc tạo nên cảm xúc của con
người với cảnh vật, biểu vật được nói tới. Vẽ nên những ý nghĩ sinh động về những
đường nét không gian trong bức tranh. Còn màu sắc tạo những ấn tượng, những xúc
cảm thẩm mĩ của con người trước cái đẹp. Thứ ba đó là việc sắp xếp bố cục, quy
luật gần xa, cao thấp tạo nên độ tương phản và những hình ảnh được trải theo một
hệ thống nhất định nêu bật ý nghĩa cũng như dụng ý nghệ thuật của tác giả trong
bức tranh đó.
Tóm lại, để tạo được tính hội họa (tạo
hình) trong văn học thì người sáng tạo nghệ thuật phải nắm vững những đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật tạo hình. Có như vậy, những câu thơ, lời văn mới có thể bộc
lộ và tái hiện được hết những hình tượng cũng như cảm xúc, tâm trạng, nỗi lòng,
niềm vui của con người trước một bức tranh thiên nhiên, đời sống sinh động và cụ
thể.
1.3 Phong cách sáng tạo nghệ thuật kết hợp yếu
tố tạo hình trong thơ ca Tố Hữu
Có thể nói Tố Hữu là một bông hoa tươi
thắm nhất trong vườn thơ cách mạng nhưng không vì thế mà thơ Tố Hữu mất đi chất
trữ tình lãng mạn. Tố Hữu đã có ảnh hưởng rất nhiều từ phong trào thơ Mới, chặng
đường đầu tiên khi mà nhà thơ vẫn chưa tìm ra chân lí cách mạng thì những sáng
tác ban đầu trong tập thơ Từ ấy mang những nét đặc trưng của thơ mới. Những
trang thơ ông cũng giàu tính tạo hình, gợi cảm “Gió vẫn vô tình lơ đãng bay/
Những tàu cau yếu sẽ lung lay/ Xạc xào động cánh...Nàng mơ tưởng/ Nghe
tiếng lòng con vẳng tới đây/ Ta thấy
nàng nghiên mình rũ rượi...” (Vú
em- Tố Hữu). Với những từ ngữ trên tạo tính động, âm thanh và những tư thế,
hình ảnh khác nhau của khung cảnh thiên nhiên.
Không những thế nhà thơ còn tái hiện
được bức tranh chuyển mùa đầy ý nhị, với âm thanh, hương sắc, và sự luân chuyển
của đất trời “Khi con tu hú gọi bầy/ Lúa
chiêm đang chín trái cây ngọt dần/ Vườn râm dậy tiếng ve ngân/ Bắp rây vàng hạt
đầy sân nắng đào/ Trời xanh còn rộng còn cao/ Đôi con diều sáo lộn nhào từng
không” (Khi con tu hú- Tố Hữu). Những hình ảnh “lúa chiêm đang chín, trái
cây ngọn dần, tiếng ve ngân, bắp rây đầy sân, nắng đào, diều sáo lộn nhào”, những
hình ảnh đó gợi cho người đọc hình dung được hàng loạt các sự vật, hiện tượng
cùng chuyển động sang mùa hè khi tiếng tu hú kêu lên. Bức tranh mùa hè hiện lên
sinh động với nhiều hình ảnh. Ở đây Tố Hữu đã vận dụng những hình ảnh mang màu
sắc nóng, chói, đỏ để cùng với âm thanh, nhịp điệu râm rang của tiếng ve để thể
hiện bức tranh mùa hè đầy sôi động. Tất cả những màu vàng của lúa chín, màu đỏ của
trái cây, màu vàng rực của bắp với màu ửng hồng của nắng là những gam màu nóng
đã được hòa nguyện với nền trời xanh rộng, cao (gam màu lạnh). Sự kết hợp hài
hòa cảnh sắc của nhà thơ đã tạo nên tính hình tượng nghệ thuật cho bức tranh, bức
tranh, mùa hè như được vẽ lên trong trí tưởng tượng của người đọc. Điểm nhìn và
không gian của bức tranh được mở rộng và có sự thay đổi tạo nên một không gian
rộng lớn từ gần tới xa, rồi cao xa.
Ngoài ra, sự kết hợp nghệ thuật tạo
hình trong sáng tác của Tố Hữu còn thể hiện ở việc khắc họa những hình ảnh về đời
sống với những điểm nhìn khác nhau như: “Cô
gái thẫn thơ vê áo mỏng/ Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai/ Ven sông phẳng
con đò mộng/ Lả lướt đi về trong gió mai” (Dửng dưng- Tố Hữu). Trong đoạn
thơ trên ta thấy được điểm nhìn từ gần tới xa, từ cô gái vê áo mỏng, che vành
nón nghiêng nghiêng đến chỗ xa hơn là con đò nhỏ trên sông. Đọc đoạn thơ ta vẫn
hình dung được một bức tranh ven sông, có người đi, có con đò, hệ thống các
hình tượng được xuất hiện. Với những từ ngữ “vê áo mỏng- dáng chờ ai, con đò mộng-
lả lướt đi về” người đọc cảm nhận được sự mệt mỏi, buồn bã, của một con người
mang nhiều hy vọng, ước muốn nhưng đành chấp nhận những u sầu, lẫn cái bế tắc.
Đây là những bài thơ trong chặng đường đầu tiên của Tố Hữu tìm đến với chân lí
cách mạng.
Không những thế trong thơ Tố Hữu còn
có những hình ảnh, những khoảnh khắc mà chỉ thơ ca mới tạo ra được và gây được
cảm xúc. “Tối không rõ mặt người em ấy/
Chỉ thấy trong đêm một bóng hồng”. Ở đây ta thấy hình ảnh “bóng hồng” như
đã vượt lên cả nghệ thuật tạo hình của người họa sĩ. Hình ảnh bóng hồng trong từng
câu chữ của Tố Hữu có thể gây xúc động sâu sắc, mà nghệ thuật tạo hình khó mà
có thể khắc họa cho được sự xúc động, lòng yêu thương, tin cậy ấy.
Trên đây là một số bài thơ trong chặng
đường đầu sáng tác của Tố Hữu nên những vần thơ còn mang âm hưởng lãng mạn, gợi
tả thiên nhiên, cuộc sống và con người. Với việc sử dụng bút pháp tạo hình nghệ
thuật đã tái hiện sinh động, chân thực những hình tượng về thiên nhiên và cuộc
sống, góp phần thể hiện tình yêu quê hương của tác giả. Tuy nhiên, trong những
chặng đường sau, khi nhà thơ Tố Hữu theo một quan điểm sáng tạo mới- thơ phục vụ
cho cách mạng, cho tinh thần đấu tranh và ca ngợi Tổ quốc, bút pháp tạo hình
nghệ thuật trong thơ ca không còn được sử dụng nhiều phần nào đánh mất giá trị
thực sự của nghệ thuật thơ ca.
Tuy nhiên, không được sử dụng nhiều
bút pháp tạo hình nhưng không phải là không có. Nghệ thuật tạo hình trong những
chặng được sau được thể hiện đặc sắc và rõ nét hơn trong tập thơ Việt Bắc, đặc
biệt ở bài thơ cùng tên của tập thơ Việt Bắc hình ảnh thiên nhiên, con người được
tái hiện, hòa nguyện vào nhau tạo nên một bức tranh sinh động, độc đáo mà hiếm
có một nhà thơ nào diễn tả được vẻ đẹp của thiên nhiên như vậy.
Chương 2. BÚT PHÁP TẠO HÌNH TRONG BÀI THƠ “VIỆT
BẮC” CỦA TỐ HỮU
2.1 Bút pháp tạo hình trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
2.1.1 Chất hội họa trong bài thơ Việt Bắc
của Tố Hữu
Có thể nói bài thơ Việt Bắc là đỉnh
thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài thơ này, hồn thơ cũng như nghề thơ
của Tố Hữu chín rộ. Những lời thơ tha thiết, ấm cúng đã ngợi ca được vẻ đẹp của
thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm tháng đấu tranh. Là những lời
tiễn đưa nhau của một đôi lứa tượng trưng cho miền ngược và miền xuôi, lời hỏi,
lời đáp, lời đồng vọng, lời dặn dò, lời hẹn hò đã cất lên nhờ sáng tạo ra cảnh “Ngược xuôi đôi mặt một lời song song”
đã khiến cho tác giả bộc lộ được hết ân tình của mình. Nhưng ngoài những cái
hài hòa cái ấm úng kia trong bài thơ không chỉ có những đoạn tuyệt đẹp, làm lộng
lẫy cuộc chia tay. Đó không còn là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều
ngọn bút đã nở cùng một lúc, bút tả tình, tả cảnh, tả người. Với sự kết hợp tài
tình của những cây bút đó Tố Hữu đã tái hiện được bức tranh Việt Bắc trong thời
gian mười năm năm tác giả sinh sống, cùng đấu tranh với con người và thiên
nhiên nơi đó. Với một khoảng không gian và thời gian nhất định, nhà thơ đã bao
quát được cuộc sống từ thuở kháng Nhật, thuở còn Việt Minh, trong thời tiết
sương sớm, nắng chiều, trong các mùa cỏ hoa thay đổi, tổng hợp bao nhiêu cảnh
cơ quan, quân đội, dân công, công trường, đường sá. Tác giả đã tái hiện những
cuộc họp trong hang núi “Ngọn cờ đỏ thắm
gió lồng cửa hang/ Nắng trưa rực rỡ sao
vàng/ Trung ương, Chính phủ luận bàn chuyện công”. Với những kí ức, niềm
mong nhớ tác giả đã tái hiện lại bức tranh những con người đang bàn luận công
việc cho chiến lược chiến đấu, với ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng bay phất phới
trong nắng trưa, trước cửa hang núi cùng với những con người đầy nhiệt huyết
cho cuộc cuộc bảo vệ đất nước. Những câu thơ đã ca ngợi cái đẹp, cái hay, cái
vĩ đại của những con người vì lợi ích của nhân dân.
Tuy nhiên, ở bài thơ Việt Bắc thực sự
bộc lộ được cảm xúc một cách thấu đáo và tinh vi ở việc tác giả bao nhiêu năm
trời cặn kẽ trông nhìn đồng bào miền núi, mến thương tình hành động của họ, đã
bao nhiều mùa ngắm nhìn phong cảnh, thuộc các mùa của núi rừng: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy,
bẻ từng bắp ngô”. Hình ảnh người mẹ miền núi với những ngày lao động cực nhọc,
trong thời tiết khắc nghiệt. Giữa cái nắng trưa như cháy lưng đổ lửa, mẹ đã địu
con đi bẻ ngô vì núi giấu độ đội. Khắc họa hình ảnh người mẹ trong lao động, đã
ca ngợi đươc vẻ đẹp cao cả trong lao động, giàu lòng hy sinh, khốn khổ. Ở đây
ta thấy bút pháp tạo hình trong bài thơ như dần hiện rõ.
Và bút pháp đó được tung hoành, phác họa
liên hoàn các bức tranh thiên nhiên vừa tươi đẹp vừa đầy sức sống của các mùa
trong núi rừng. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những màu sắc, đường nét
tinh tế, ý nhị. Ở đây tác giả đã sử dụng các thủ pháp, nguyên tắc trong việc
miêu tả thế giới với các yếu tố màu sắc, đường nét, hình khối, các chiều trong
không gian. Trong bài thơ Việt Bắc thiên nhiên được thể hiện chủ yếu qua bức
tranh tứ bình (xuân, hạ, thu, đông) với những màu sắc, đường nét uyển chuyển, độc
đáo tạo nên một bức tranh lung linh, sinh động. Cùng với việc kết hợp đa dạng
những thi liệu văn hóa nhân gian như mái đình, cây đa mang âm hưởng vừa cổ điển
vừa hiện đại tạo nên sự trang trọng lẫn sự lãng mạn cho bức tranh. Mở đầu bức
tranh đó là cảnh và người Việt Bắc;
Mình về mình có nhớ ta
Ta
về ta nhớ những hoa cùng người
Sự hòa nguyện giữa cảnh và người ở nơi
đây luôn được xuyên thấm, xuyên hành gắn kết với nhau. Và không gian trong bức
tranh ấy không chỉ có hoa và người mà một không gian rộng lớn, làm nền để điểm
tô sự nổi bật của con người đó là gam màu xanh bao la của núi rừng, của chiến
khu Việt Bắc;
Rừng xanh hoa chuối đở tươi
Đèo cao
nắng ánh dao gài thắt lưng
Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng,
nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Tố Hữu đã vân dụng nghệ
thuật điểm xuyết trong thơ cổ “Cỏ non xanh rợn chân trời- cành lê trắng điểm
một vài bông hoa- Nguyễn Du” tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi
rừng Việt Bắc, điểm lên đó là những bông chuối đỏ tươi, đây là điểm sáng làm
bừng lên vẻ đẹp của bức tranh mùa đông, nó gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Từ xa trông tới, bông hoa như những
bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập,
vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi”- gam màu nóng của bông
chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc
trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh
giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Kèm theo đó là
ánh nắng nhẹ nhạt của mùa đông chiếu vào lưỡi “dao cài thắt lưng” cũng làm bừng
lên cái ánh sáng tươi đẹp của mùa đông. Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh
nổi rõ hơn cảnh nhưng cách điểm xuyết ở đây ấy rất độc đáo, càng chọn điểm nhỏ
nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy nắng ánh của
hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự
chuyển động. Gam màu cơ bản của bức tranh là màu xanh của núi rừng, điểm lên
nền xanh bạc ngàn đó là những bông chuối như những đám lửa đang bập bùng cháy
giữa rừng già. Điều đáng chú ý trong bức tranh là sự xuất hiện của con người,
con người ở đây chỉ là nét chấm tả trên nền xanh đó nhưng đồng thời cũng chiếm
lĩnh được cả chiều cao và chiều sâu của bức tranh. Hình ảnh chiếc dao gài lấp
lánh biến con người thành một thứ ánh sáng dao động. Thiên nhiên ở đây không
che lấp con người mà tôn lên vẻ đẹp của con người. Hình ảnh biểu hiện rõ mồn
một ở bức tranh đó là con người đang đứng ở lưng chừng đèo, con người vững
vàng, tự tin làm chủ núi rừng, thể hiện vẻ đẹp lừng lẫy của con người Việt Bắc.
Thơ ca là một nghệ thuật của thời
gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng
lấp và không gian không bất động, bất biến mà vẫn hiên ngang sức sống nhờ sự
tái sinh của những lớp ngôn từ “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh
dao gài thắt lưng” là một câu thơ như thế. Quả thật thơ đã được nói bằng hình
ảnh, cái cảm xúc vô hình ấy cần có cái hữu hình để tồn tại. Chính những hình
ảnh đó đã tái tạo nên một thế giới như nó đã tồn tại trong hiện thực. Nghệ
thuật tạo hình trước hết là để tái hiện hình tượng.
Một bức tranh
sinh động nó không chỉ tạo lập nên một không gian đặc sắc mà sự thay đổi luân
phiên của thời gian cũng là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Sự chuyển tiếp từ
một bức tranh mùa đông sang mùa xuân, phải chăng cái ánh sáng trên “dao cài thứt
lưng” vẫn chưa đủ để nói lên sức sống mãnh liệt của hoa và người Việt Bắc mà đến
bức tranh mùa xuân nó như được bung nở, làm bừng sáng cả núi rừng với một gam
màu mới;
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi gian
Ở đây, bức
tranh mùa xuân hiện lên là một màu trắng của hoa mơ, gam màu trắng đã làm nền
cho bức tranh, tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức
của thiên nhiên. Hai từ “trắng rừng” đã thể hiện cảm xúc choáng ngợp trước rừng
mơ. Cùng với cái sắc xuân của đất trời trong cái sắc xuân ấy hình ảnh con người
cũng không kém phần quyến rủ “chuốt từng sợi gian” một động tác làm việc rất cần
mẫn, khoan thai. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở
điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng như hoa đỏ, nắng ánh để diễn tả sự
chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát
điệp trùng để tìm cái rạo rực của thiên nhiên. Trên cái nền không gian rộng lớn
và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ. Con người
Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực.
Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình
ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Có thể nói rằng một trong hoạt động sáng tác
thơ ca là một lĩnh vực đòi hỏi rất nhiều đến trí tưởng tượng, liên tưởng của
người nghệ sĩ thì Tố Hữu của chúng ta đã có được điều đó, hình ảnh của thế giới
bên ngoài mà nhà thơ nhìn thấy đã hòa cùng với thế giới tâm hồn, với tình cảm
yêu thương để đến lúc nhớ về kỉ niệm, kí ức được tái hiện, sống dậy, khơi nguồn
cảm xúc, tạo nên một trật tự mới trong tâm hồn, cũng tạo nên một nghệ thuật kết
hợp mới mẻ trong nghệ thuật sáng tạo. Văn học không có khả năng tạo ấn tượng mạnh
mẽ với những động tác trực tiếp lên thị giác như hội họa, nhưng nó có khả năng
mô tả, thể hiện, chiếm lĩnh các hiện tượng đời sống sâu sắc qua kênh liên tưởng.
Chính bằng kênh liên tưởng ta cảm nhận được vẻ đẹp của các bức tranh thiên
nhiên thông qua ngôn từ. Ở câu thơ trên, tác giả đã dùng màu sắc và đường nét như một lớp ngôn ngữ đẹp lạ lùng, những nét chấm phá đã tạo sức sống
động cho bức tranh, bên cạnh gam màu nền tĩnh lặng của thiên nhiên là những
hình ảnh chuyển động của con người.
Thiên nhiên
trong Việt Bắc hội tụ đủ bốn mùa, sự tái hiện lại khung cảnh bốn mùa đó cho thấy
sự liên tưởng rất quang trọng trong sáng tác, nó là nổi nhớ, niềm mong, là nơi
từng lưu sống nặng lời thề trong lòng tác giả nên khi đi tái hiện lại cảnh núi
rừng Việt Bắc, tác giả không thể bỏ sót một hình ảnh nào mà dùng bút lực của
mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Bên cạnh những ngày đồng giá lạnh, những
ngày xuân ấm áp thì hình ảnh ngày hè rực rỡ cũng được nhắc đến;
Ve kêu rừng phách
đổ vàng
Nhớ cô em gái hái
măng một mình
Câu thơ bắt đầu
là tiếng “ve kêu” cùng với “rừng phách đổ vàng”. Ở đây có sự hòa điệu của tiếng
ve và của rừng phách đổ, ta có cảm giác như rừng núi đang tấu lên khúc nhạc rừng,
như giàn hợp xướng, khung cảnh mơ màng của mùa đông được xua tan đi thay vào đó
là sự sôi động, rực rỡ hẳn lên. Rừng phách thay lá trong tiếng ve râm rang việc
kết hợp hài hòa giữ tả màu và tiếng đã đưa lại một hiệu quả nghệ thuật bất ngờ,
dường như có một sự phản ứng dây chuyền ve vừa dứt tiếng lập tức rừng phách đổ
vàng, đây quả thực là ngày hội của cảnh vật, một âm thanh cũng trở nên có màu sắc.
Nghệ thuật liên tưởng trong thơ mang tính bất ngờ, sáng tạo, đa dạng và nhạy
bén. Mối liên hệ nhiều khi tưởng xa xôi, mơ hồ, không có cơ sở, nhưng thực chất
lại chân thật, hợp lí. Cái đột ngột bất ngờ của liên tưởng trong Tố Hữu được tạo
nên nhờ những linh cảm nhạy bén của trí tuệ cũng như tình cảm của tác giả về
nơi mà mình từng sống, từng đi qua trong cuộc đời mình. Cũng nhờ có sự liên tưởng
đa dạng đã tạo nên những màu sắc khác nhau của các cung bậc cảm xúc.
Có thể nói nghệ
thuật tạo hình trong bức tranh này đặc sắc nhất đó là sự chuyển đổi một cách
linh hoạt của gam màu nền, cùng với sự định vị thời gian qua tiếng ve lớp màu vàng
của rừng phách đồng loạt đổ xuống tạo sự nên thơ và vô cùng thơ mộng của bức
tranh mùa hè. Đúng là trong thi có họa, tạo hình lấy đường nét làm chính để diễn
tả cái thần khí, cái sinh lực tồn tại của vạn vật.
Trên cái nền
âm thanh và màu sắc đó hiện lên hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”, một
khung cảnh mùa hè đầy sắc vàng đặc trưng của Việt Bắc đã làm nền cho cô gái
thêm rực rỡ, nồng say, hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp
phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh. Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong
thơ Tố Hữu hoà quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau.
Bức tranh cuối
cùng trong bộ tứ bình là hình ảnh mùa thu về đêm, cũng như những nhà thơ khác
khi nói về mùa thu thi nhân không quên nhắc đến ánh trăng, Tiếng thu của Lưu Trọng
Lư “Em không nghe rừng thu/ Lá
thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp
trên lá vàng khô ?” đây quả là một bức
tranh thu tuyệt sắc đến lược mình Tố Hữu đã tả mùa thu Việt Bắc;
Rừng
thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Câu thơ có kiểu
mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “rừng thu”. Đến đây, ta chú
ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên: Rừng xanh => không gian, Ngày xuân
=> thời gian, Ve kêu => âm thanh (thời gian). Ứng với mỗi câu thơ và cách
định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ
này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu), không gian được bao
trùm bởi gam màu đen, đó là một đêm thu lấp lánh ánh trăng. Có lẽ đó là bức
tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm
nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn “ân
tình thủy chung”. Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh
lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại
vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và trong cuộc
sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng. Ai
đó đã từng nói rằng: bốn mùa xuân-hạ-thu-đông là món quà vô giá mà tạo hóa ban
tặng cho con người. Bốn mùa với bốn sắc thái khác nhau mang đến sự đổi thay cho
thiên nhiên cây lá. Bộ tranh tứ bình của Tố Hữu cũng vậy, nó cũng cho người đọc
cảm nhận được từng sắc thái độc đáo, riêng biệt của tự nhiên.
Bên cạnh bức tranh thiên nhiên được gợi
tả đầy tinh tế, sinh động thì hình ảnh người lính trong những đêm hành quân
trùng trùng điệp điệp trong những khu rừng hoang vắng, lạnh lẽo cũng là một bức
chân dung khắc họa sâu sắc, hùng vĩ về con người. Nếu những câu thơ lục bát
trên đang đi trên những âm điệu êm ái ngọt ngào của hoài niệm về Việt Bắc với bốn
mùa tươi đẹp thì tới những câu thơ sau bỗng trở nên dồn dập, sôi nổi, náo nức.
Khép lại bức tranh thiên nhiên thì tác giả lại mở ra một bức tranh mới đó là bức
tranh về những người lính Việt Bắc ra quân với khí thế đất trời chuyển rung:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm
đêm rầm rập như là đất rung
Với việc sử dụng những từ láy “đêm
đêm, rầm rập” gợi mở không gian và gợi âm thanh, tác giả đã vẽ lên một đoàn
quân ra quân với khí thế dũng mãnh. Những bước đi như đất trời đang rung chuyển
sụp lỡ dưới chân các chiến sĩ. Cuộc hành quân đó rất thần tốc:
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Hiện lên trên
bức tranh với màn sương đêm, hình ảnh đoàn quân đi thật đẹp và dài đến vô tận.
Hình ảnh “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” là một hình ảnh đẹp và thơ mộng,
gợi ta nhớ tới câu thơ “Đầu súng trăng treo” trong bài Đồng chí của Chính Hữu.
Câu thơ như một bức chân dung khắc họa hình ảnh người lính trong từ thế chờ
giặc, sẳn sàng chiến đấu. Hình ảnh “súng” và “sao”, “trăng” là những hình ảnh
biểu tượng gắn liền với cuộc đời người lính. Suốt đêm vầng trăng hay những ngôi
sao từ bầu trời cao, xuống thấp dần và có lúc nó như treo lơ lửng trên đầu mũi
súng, một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.
Bên cạnh những anh bộ đội cụ Hồ, hình ảnh những đoàn dân công ra trận tải
lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Hình ảnh nhưng
đoàn dân công nườm nượp đi trong ánh đuốc là một hiện thực. Trong chiến tranh,
nhân dân lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa đêm Việt Bắc ra quân những người
dân công cũng đỏ đuốc đi từng đoàn. Họ là những người lính hăn hái lên đường.
Giữa cái cảnh hào hùng ấy đoàn quân đi như lở đất, nát đá cùng với muôn tàn lửa
bay. Với hai câu thơ như làm sinh động và thơ mộng hơn cho bức tranh hành quân.
Ta có cảm giác như một bức tranh về đêm với đèn hoa đăng rực rỡ, những bó đuốc
rơi xuống mặt đất đã thực sự làm cho con đường ra trận thêm lung linh, ấm áp
trong đêm lạnh. Ở đây, bút pháp tạo hình của Tố Hữu đã kết hợp độc đáo và hài
hòa về màu sắc. Giữa cái lạnh của đêm khuya, cái bóng tối hiểm nguy hòa vào
những ngọn đuốc tỏa sáng làm cho bức tranh ra trận trở nên ấp áp và giàu lòng
tin yêu.
Và bức tranh
cuối cùng trong bài thơ Việt Bắc, như một danh họa. Trong mấy nét, Tố Hữu đã
lột tả được phong thái cao quý lớn lao của Hồ Chủ tịch, khi Người đi qua rừng
núi cũng như học theo tác phong của Người, con ngựa của Người cưỡi như cũng
nhịp bước chân cho hợp với cái bình tĩnh ung dung của Người.
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng
Người...
Đoạn
thơ trên đã thể hiện nỗi nhớ, lòng kính yêu, tình
lưu luyến của đồng bào các dân tộc đối với Bác Hồ khi Người từ chiến khu Việt
Bắc trở lại thủ đô Hà Nội sau hơn ba ngàn ngày khói lửa. Hai chữ “thưa giùm” là cách nói đậm đà của dân gian. Vì xa
cách nên phải “thưa giùm”,
gửi lời yêu thương, kính nhớ “không nguôi nhớ Người”.Nhớ không nguôi là
nhớ da diết, nhớ day dứt triền miên. Kể từ ngày Người ở hải ngoại trở về Pắc
Bó, Cao Bằng đến ngày Thủ đô hoàn toàn giải phóng (1941-1954), Bác đã sống và
hoạt động giữa núi rừng Việt Bắc“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn
nồng”. Bác về lại Thủ đô, nên đồng bào Việt Bắc mới có nỗi nhớ ấy:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.
Chữ “nhớ” là
cảm xúc chủ đạo, thấm sâu trong lòng người, tỏa rộng trong không gian, thời
gian, và đã in đậm trên từng vần thơ của Tố Hữu. Người đã về xuôi nhưng “ta” vẫn nhớ không
nguôi. Nhớ cặp mắt “sáng ngời” của
Bác, nhớ chiếc “áo nâu” dân dã, nhớ chiếc “túi vải” mà Người vẫn mặc, vẫn mang theo bên
mình khi đi công tác, khi đi chiến dịch:
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời!
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường.
Các
hoán dụ nghệ thuật (mắt, áo nâu, túi vải) tượng trưng cho sự thông minh, tài
trí, đời sống giản dị của Bác Hồ kính yêu. Các chữ: “sáng ngời”, “đẹp tươi lạ
thường!” đã gợi lên cái thần thái và cốt cách lão thực của Ông Cụ,
một con người xuất chúng đã kết tinh những tinh hoa văn hóa cổ kim đông tây.
Bức truyền thần Hồ Chí Minh như được vẽ bằng màu sắc và ánh sáng tuyệt đẹp. Tố Hữu
đã nhiều lần nói về chiếc áo nâu của lãnh tụ. Một đời sống giản dị đáng yêu vô
cùng:
Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà.
(Sáng tháng Năm)
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn. (Bác ơi)
Và
đôi mắt Bác Hồ, đôi mắt ấm áp tình thương, đôi mắt lạc quan yêu đời, đôi mắt
của niềm tin dào dạt:
Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người Cha, đôi mắt mẹ hiền sao!
(...) Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tuơi mãi tuổi đôi mươi.
(Sáng tháng Năm)
Và ở
những câu thơ:
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...
Những
câu thơ trên thể hiện một nét đẹp, một phẩm chất cao quý của lãnh tụ, đó là
phong thái ung dung tự tại của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại mang cốt cách nhà
hiền triết phương Đông. Bức chân dung
Ông Cụ được vẽ bằng những nét vẽ động và sự phối sắc thần tình. Lãnh tụ xuất
hiện trên yên ngựa, “trên đường suối reo” với phong thái ung dung, với tư thế
đĩnh đạc “bước lên đèo”.
Cái nền của bức tranh rất đẹp. Có màu trắng nhạt của “tinh sương”. Có màu lóng lánh trong xanh của “suối reo”. Có màu đất đỏ của con “đèo”. Và có màu xanh của rừng núi Việt Bắc.
Điệp ngữ “nhớ” là tâm trạng nghệ thuật đồng hiện trong một
không gian nghệ thuật đầy màu sắc và âm thanh (suối reo). Núi rừng được nhân
hóa nói lên thật cảm động tình lưu luyến của đồng bào Việt Bắc đối với Bác Hồ
kính yêu: “Người đi rừng núi trông theo bóng Người”.
Đoạn
thơ trên đây là bức tranh lụa truyền thần tuyệt tác về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tài
trí thông minh, giản dị, ung dung tự tại là cái thần của bức chân dung Ông Cụ.
Điệp ngữ “nhớ” được
kết hợp với các từ ngữ biểu cảm khác như: “không nguôi nhớ Người”, “trông theo bóng Người” đã diễn tả một cách chân thật cảm động
mối quan hệ thân thiết tốt đẹp giữa lãnh tụ với nhân dân, giữa Bác Hồ với đồng
bào Việt Bắc. Ngòi bút Tố Hữu rất giàu có khi nói về lãnh tụ: Bác, Người, Ông
Cụ, một cách nói vừa thành kính trang trọng, vừa dân dã bình dị.
Tình
cảm là suối nguồn vô tận của thi ca. Tình cảm tạo nên hồn thơ, hương vị thơ. Tố
Hữu đã viết nên những vần thơ dung dị, đậm đà ca ngợi những phẩm chất cao quý
của lãnh tụ thiên tài của dân tộc với tất cả niềm kính yêu và lòng tự hào sâu
sắc. Hình ảnh Bác Hồ càng trở nên thân thiết yêu thương đối với mỗi con người
Việt Nam. Đoạn thơ biểu hiện cao độ vẻ đẹp nghệ thuật và tính dân tộc trong thơ
Tố Hữu.
Qua sự phân
tích bút pháp hội họa trong những câu thơ của Tố Hữu ta cũng có thể nhận thấy mối
quan hệ vô cùng gần gũi giữa văn học và hội họa, chúng luôn được đan xen, dung
hòa vào nhau, nhờ có nghệ thuật tạo hình mà thơ có thể tái hiện một cách độc
đáo, sinh động về hiện thực.Nhà
thơ không chỉ tả ý, chí, tình mà còn cố gắng vẽ nên hình ảnh bằng ngôn từ để tạo
thêm sức hấp dẫn, sức gợi cho thơ. Hoạ sĩ cũng không chỉ nhằm tái hiện lại hình
ảnh sự vật sao cho “giống như thật” với sự vật bên ngoài, mà còn chú ý đến
cái thần, gởi gắm tâm tình
của mình qua đường nét và màu sắc của bức tranh. Cho nên trong thơ luôn có hai phần:
tình và cảnh, mà người ta thường dùng cảnh để ngụ tình. Bởi vậy kết cấu của một
bài thơ lục bát thường là phần trước tả cảnh, phần sau tả tình, trong đó phần
tả cảnh rất giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét khiến người đọc như thấy trước
mắt hiện lên một bức tranh sống động.
2.1.2 Nghệ thuật
kết hợp hài hòa giữa các yếu tố tạo hình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Cái đẹp trước hết được thể hiện ở sự
hài hòa. Tính chất hài hòa luôn là tiêu chuẩn để đảm bảo cho sự phát triển lành
mạnh, bình thường của cuộc sống, dựa trên tác động tương hỗ của các sức mạnh đối
xứng nhau. Một bông hoa đẹp phải vừa có sắc vừa có hương, một người phụ nữ đẹp
thì phải vừa có sắc đẹp vừa có trí tuệ, đầy đủ công dung ngôn hạnh. Và, để có được
những bức tranh như một ngòi bút phác hoạ Tố Hữu đã rất tài tình khi đi kết hợp
hài hòa giữa các yếu tố tạo hình ảnh, màu sắc, đường nét như từng gam màu trong
từng bức tranh, màu đỏ điểm tô và làm bổi bật cái nền màu xanh tạo nên sự ấm áp
của bức tranh mùa đông, màu vàng làm nền cho sự xuất hiện của con người, cảm hứng
tốt về màu sắc cũng là nguồn cội làm tác phẩm văn học thành một bức tranh tạo
xúc cảm thẩm mĩ. Việc kết hợp hài hòa giữa gam màu lạnh với gam màu nóng, không
gian tối với sáng tạo nên sự hòa sắc cho
bức tranh, chính vì vậy mà hòa sắc làm cho sức diễn đạt về tình cảm được bộc lộ
mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nghệ thuật kết hợp lấy động tả tĩnh, lấy tĩnh tả động làm
cho bức tranh thiên nhiên thêm cổ kính và sinh động, hấp dẫn cho bức tranh, những
nét chấm phá nhỏ trên từng gam màu tạo nên một không gian và thời gian nên thơ
cho bức tranh. Có thể nói rằng bộ tứ bình xuân- hạ- thu- đông của Tố Hữu có thể
sách cùng với bốn bức tranh trong hội họa Trung Quốc quen gọi “Tùng, Cúc, Trúc,
Mai”, “Long, Ly, Quy, Phượng.
Nghệ thuật đảo lộn quy luật tư nhiên,
bức tranh của Tố Hữu không được bắt đầu bằng mùa xuân mà bằng mùa đông và kết
thúc bằng mùa thu hòa bình, rực rỡ cờ đỏ sao vàng. Cách thức thể hiện thời gian
luân phiên thay đổi làm đa dạng bức tranh, tuy nhiên mỗi thời gian trong bức
tranh là một khoảng khắc, một hoài niệm được tái hiện. Đứng ở góc độ cảm thụ
tác phẩm qua ngôn từ trong mỗi bạn đọc sẽ có những cách cảm, cách liên tưởng
khác nhau về bức tranh thiên nhiên, những hình ảnh đó sẽ không trùng khít với
nhau trong mỗi ấn tượng chủ quan của người đọc.
Tuy nhiên, tạo nên một kiệt tác thẫm
mĩ, một bức tranh mĩ lệ như vậy Tố Hữu đã vận dụng và kết hợp được các yếu tố
trong hội họa để tạo nên ấn tượng độc đáo cho riêng trong thơ ca. Cảm nhận thế
giới bằng con mắt hội họa đã giúp Tố Hữu tái hiện một cách ân tình thủy chung với
chiến khu Việt Bắc.
2.2 Ý nghĩa của việc kết
hợp hội họa trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
2.2.1 Bút pháp hội họa giúp tái hiện hình
tượng
Chức năng nghệ thuật của tạo hình văn
học xuất phát trừ đặc trưng của văn học. Văn học thì phản ánh thế giới bằng
hình tượng. Hình tượng chính là những hình thức của đời sống, là một dạng tồn tại
cụ thể, cảm tính, toàn vẹn, không lặp lại, mang hơi thở của cuộc sống. Trong
hình tượng có phần chúng ta “thấy” được nhờ tưởng tượng hoặc hình dung và còn
có phần chúng ta không nhìn thấy được đó là cảm xúc, nổi niềm, quan hệ... Vì vậy
mà sử dụng ngôn từ nghệ thuật giàu hình ảnh mới có thể tái hiện được cuộc sống
tươi nguyên, sinh động, nghĩa là tạo dựng cho hình tượng đó một không gian, thời
gian, nhịp điệu, sắc màu như thật và như những gì họ đã thấy. Ở đây, Tố Hữu đã
tái hiện trong hoài niệm của mình về núi rừng Việt Bắc trong những năm kháng
chiến thông qua lớp ngôn từ tạo hình ảnh, màu sắc, thời gian cụ thể đưa vào nhận
thức của từng người đọc như một bức tranh tuyệt xúc, cuốn hút. Bức tranh phong
cảnh bao giờ cũng giúp người đọc nhận biết về không gian (cao, rộng, sâu, dài),
về thời gian (các mùa, các buổi). Còn bức tranh về cuộc sống và chiến đấu được
tác giả tái hiện với một tình cảm nồng nàn, ấm cúng. Đó là thứ tình cảm hài
hòa, sâu đậm của con người Việt Bắc đã hòa nguyện cùng với tâm hôn và tấm lòng
của tác giả. Sử dụng những đại từ “mình- ta” có trong ca dao đã thể hiện được sự
gần gũi, gắn bó sâu nặng với nhau. Những hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy
trong cái nắng đốt lưng, hình ảnh đoàn quân trùng trùng giữa núi rừng trong đêm
khuya vắng, hình ảnh Bác Hồ kính yêu đã hòa lẫn vào những cảnh sắc thiên nhiên
và con người Vệt Bắc. Đó là những hình ảnh đẹp đẽ, cần được lưu giữ trong tâm hồn
và cũng cần tái hiện con người biết đến nội dung xã hội của bức tranh và tình cảm
của tác giả. Hay đúng hơn thông qua lớp ngôn từ đó cảnh tượng Việt Bắc hiện lên
trong đầu từng bạn đọc những cảm xúc và hình dung riêng nhưng ít nhiều đã giúp
người đọc cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng và con người Việt Bắc, đó
là một không gian tinh thần của người bộ đội chiến khu, là nơi tình sâu nghĩa nặng
giữa những con người với nhau.
2.2.2.
Bút pháp hội họa làm cho văn chương trở nên mĩ lệ
Văn chương tạo được ấn tượng và cảm
xúc thẩm mĩ cho người đọc bởi ngôn từ nghệ thuật và ngôn từ ấy phải là ngôn từ
vẽ lên được màu sắc, âm thanh, ánh sáng, không gian, thời gian trong thiên
nhiên. Nhờ sự tạo hình mà văn chương trở nên mền mại, dễ đi vào lòng người cũng
như dễ đạt được sự tuyệt bích trong nghệ thuật như Lưu Hiệp từng nói: “Thanh và
nét vẽ đều sáng, đều tỉnh thì sắc thái văn chương bay vọt lên”. Bộ tứ bình của
Tố Hữu vẫn tỏa sức quyến rủ đến hôm nay là nhờ vào điều đó. Với những đường nét
tạo hình cơ bản, chấm phá nhẹ không đi sâu vào miêu tả nhưng bức tranh vẫn hiện
lên với đủ các màu sắc duyên dáng, đường nét mền mại, ý nhị kín đáo. Đọc vang từng
câu thơ lên bức tranh như được vẽ ngay trong trí tưởng tượng của người đọc, họ
có thể hình dung đó là một cảnh thu huyền dịu, mát mẻ, một mùa đông ấm áp, một
mùa hè sôi động âm vang, một mùa xuân đầy sức sống. Bằng nghệ thuật tạo hình bằng
ngôn từ trong thơ đã Tố Hữu đã để lại một bức tranh liên hoàn tuyệt sắc. Với việc
vận dụng tốt yếu tố hội họa trong thơ góp phần làm cho văn chương trở nên mĩ miền
và tạo được giá trị cao cho nghệ thuật tạo hình trong văn học, nhờ đó mà bức tranh nào trong văn học cũng lung
linh sự sống, mỗi bức tranh là một thế giới linh động. Nếu người xem tranh hoa
mắt, rối rít vì những đường nét, màu sắc thì đọc thơ sẽ giúp họ nâng cao trí tưởng
tượng và tạo một sự vi diệu trong tâm hồn.
C.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong thơ có họa là một phẩm chất cơ bản
của thơ ca, đó là cái duyên gặp gỡ giữa hai thể loại vốn gần gũi, tường đồng và
được bắt nguồn sâu xa từ hình tượng nghệ thuật, cùng hướng tới một giá trị thẩm
mĩ chung về cái đẹp. Và Tố Hữu là một trong những nhà thơ có tài về điều này. Với
bút pháp tạo hình đã giúp cho nhà thơ tái hiện được cảnh núi rừng và con người Việt
Bắc trong những năm kháng chiến mang những nét riêng trong cảm nhận của nhà
thơ. Hiện lên trong nỗi nhớ của người là thiên
nhiên với bốn mùa và con người Việt Bắc trong lao động và đấu tranh giàu lòng
hy sinh. Trong bài thơ Việt Bắc cũng như thường thấy trong thơ Tố Hữu, tình cảm
bao giờ cũng làm nền, mà cái tình thì rất thật, trên đó đan xen nhau những yếu
tố cũ và mới, tính chất ước lệ và cụ thể, và thông qua sự kết hợp này đạt đến
thứ cổ điển mới cho thể thơ lục bát truyền thống, góp phần tái hiện một cách
sinh động về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Ở đó tình cảm cách mạng đã hòa
chung vào tình yêu rộng lớn. Đây là một nét đẹp, một thành công của Tố Hữu
trong bài thơ này.
Với việc tìm hiểu và tiếp cận đề tài ở
“bút pháp tạo hình nghệ thuật trong bài Việt Bắc của Tố Hữu” người viết cũng đã
làm tốt những vấn đề liên quan đến đề tài, cũng như thực hiện tốt những luận điểm
đưa ra trong bài viết. Là một đề tài không phải là mới khi đi nghiên cứu về bài
thơ Việt Bắc của Tố Hữu nhưng dưới góc nhìn của một loại hình nghệ thuật khi đi
nghiên cứu bút pháp tạo hình phần nào tạo nên cái nhìn mới mẻ về tác phẩm cũng
như tác giả. Bên cạnh đó sẽ tạo ra những hướng nghiên cứu mới cho những người
đi sau.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Hà Minh Đức, “Tố Hữu- Cách mạng và thơ”, NXB Giáo dục, 2000.
2.
Lê Lưu Oanh, “Văn học và các loại hình nghệ thuật”, NXB Đại học
sư phạm, 2006.
3.
Trần Đình Sử (tuyển chọn) “Giảng văn chọn lọc văn học Việt
Nam”, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000.
4.
Phong Lan (tuyển chọn và giới thiệu) “Tố Hữu tác giả và tác
phẩm”, NXB Giáo dục, 2001.
MỤC LỤC
Out Of Topic Show Konversi KodeHide Konversi Kode Show EmoticonHide Emoticon