Khảo sát từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng

A.   MỞ ĐẦU
1.     Lí do chọn đề tài
          Quảng Nam là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa văn học sâu sắc. Không chỉ có bề dày về nền văn học dân gian mà trong giai đoạn cận đại và hiện đại đất Quảng Nam đã sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử đồng thời cũng là nhà văn hóa có nhiều đóng góp cho nền văn học dân tộc. Đồng hành với sự vận động của lịch sử dân tộc, của địa phương thơ ca Quảng Nam đã phản ánh sâu sắc các hoạt động, nhận thức, tư tưởng tình cảm, lí tưởng thẩm mỹ mang tính đặc thù của một vùng đất “chưa mưa đã thấm”. Đó không chỉ là những nét tính cánh chân thật, mặn mà, bộc trực mà còn có những giọng điệu trữ tình sâu lắng được bộc lộ bằng một vốn từ ngữ của chính địa phương mình.
          Cùng với hành trình phát triển của lịch sử địa phương thì thơ ca Quảng Nam cũng được vận động theo, nó không chỉ là những tiếng nói chân thật của địa phương mà nó còn phản ánh con đường phát triển mạnh mẽ của vốn từ địa phương trong công cuộc phát triển và làm phong phú vốn từ dân tộc. Nếu như hiện nay, đất nước ta đang trên con đường chuẩn hóa ngôn ngữ, đã vô tình đánh mất hoặc không chú ý đúng mức đến sự hiện diện của những từ ngữ địa phương phần nào đã đánh mất sự phong phú, đa dạng của những vốn từ địa phương thì việc tìm hiểu nghiên cứu vốn từ địa phương là một việc làm rất cần thiết và ý nghĩa. Góp phần vào công cuộc giữa gìn và bảo quản vốn từ địa phương.
          Tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng là tập thơ được tập hợp, giới thiệu những sáng tác tiêu biểu của những con người đất Quảng, những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử như; Nguyễn Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...và cùng với những bài thơ của những tác giả xuất hiện nhiều năm trên văn đàn được nhiều người biết đến như Phan Khôi, Bùi Giáng, Thu Bồn, Khương Hữu Dụng... Trăm năm thơ đất Quảng đã giành một vị trí xứng đáng cho nhưng tác giả ở mọi miền đất nước đã sống chiến đấu, lao động, cống hiến và đã để lại dấu ấn, bản sắc riêng độc đáo cho vùng đất này. Nghiên cứu đề tài tiểu luận dưới góc độ từ địa phương trong tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng” phần nào giúp khẳng định giá trị nghệ thuật của tập thơ, hiểu hơn về mảnh đất và con người Quảng Nam. Hơn thế, Trăm năm thơ đất Quảng sẽ là cầu nối giữa lí tưởng cao đẹo, tâm hồn trong sáng, thanh cao của những con người qua các thời đại, góp phần thể hiện được tình yêu cuộc sống, yêu quê hương trước mọi sóng gió. Qua đó giúp ta thấy được quy luật tương tác giữa từ địa phương và từ toàn dân, cũng như giá trị của từ địa phương đối với việc biểu hiện tư tưởng tình cảm của các nhà thơ. Và đó cũng chính là những lí do thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài: “Khảo sát từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng” làm đề tài nghiên cứu.
2.     Lịch sử nghiên cứu
          Nghiên cứu về từ địa phương hiện nay có một số công trình nghiên cứu sau: Trong bài nghiên cứu Luận văn Thạch sĩ của Phạm Thị Thùy Dương với đề tài “Khảo sát từ địa phương trong thơ Tố Hữu”, ở bài viết này người nghiên cứu đã làm rõ những khái niệm về phương ngữ, cũng như nêu được những quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Tố Hữu khi sử dụng từ địa phương, bên cạnh đó người nghiên cứu cũng phân tích rõ từng chi tiết và có bảng thống kê cụ thể về việc sử dụng từ địa phương trong thơ Tố Hữu.
          Nghiên cứu về từ địa phương trong văn học Quảng Nam có một số công trình nghiên cứu sau: Về lĩnh vực thơ ca dân gian Quảng Nam có cuốn “Tiếng địa phương trong ca dao vùng Quảng Nam, Đà Nẵng” của Đinh Thị Hựu. Ở cuốn này tác giả cũng đã làm rõ từ địa phương Quảng Nam dưới nhiều bình diện như từ loại, cấu tạo từ, quan hệ âm- nghĩa... Đồng thời tác giả nêu bật được vai trò của việc sử dụng từ địa phương trong ca dao Quảng Nam.
          Trong bài nghiên cứu đồ án Tiến sĩ của Bùi Thị Lân về thơ ca dân gian Quảng Nam, tác giả cũng đã làm rõ từ địa phương trong ca dao dân ca về đặc điểm cấu tạo cũng như từ loại. Ngoài ra tác giả cũng đã phân loại và nêu lên vai trò của từ địa phương trong thơ ca dân gian Quảng Nam.
          Với những công trình nghiên cứu trên sẽ là nguồn tài liệu vô cùng phong phú giúp chúng tôi thực hiện tốt đề tài “Từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng”.
3.     Mục đích nghiên cứu
          Với việc tìm hiểu “Từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng xưa”, người nghiên cứu không chỉ nêu rõ đặc điểm của từ địa phương được sử dụng trong tập thơ mà còn nêu vai trò của những từ địa phương đó trong nghệ thuật sáng tạo thơ ca. Nó không chỉ giúp nhà thơ bộc lộ nỗi niềm của tâm hồn mà còn thể hiện tình yêu quê hương, đặc biệt tình yêu “tiếng nói” thiêng liêng của quê hương mình.
4.     Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
          Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu là “Từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng”.
          Phạm vi nghiên cứu: Ngoài tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng là tài liệu nghiên cứu chính, bài nghiên cứu đề cập đến một số bài thơ trong tập Dấu xưa Đất Quảng để tiện cho việc phân tích so sánh cũng như tạo nên sự sinh động cho bài viết.
5.     Phương pháp nghiên cứu
-         Phương pháp tổng hợp- phân tích
-         Phương pháp tìm tài liệu- đọc hiểu
-         Phương pháp chứng minh- dẫn chứng
-         Phương pháp liên ngành















B.    NỘI  DUNG
Chương 1  CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1   Vài nét về phương ngữ học và từ địa phương
1.1.1      Khái niệm phương ngữ
          Phương ngữ hay tiếng địa phương là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp dialektos, theo từ nguyên dialektos có nghĩa là “nói năng” mà nói năng giao tiếp bao giờ cũng xảy ra trong một hoàn cảnh, một nơi chốn nhất định. Vì vậy mà sau này người ta hiểu dialektos nghĩa là tiếng địa phương hay phương ngữ là vậy.
          Nói về khía niệm phương ngữ thì từ lâu trong luận án Phó Tiến sĩ, Võ Xuân Trang đã nêu khái niệm phương ngữ một cách cụ thể: “Mỗi ngôn ngữ có thể chia thành các phương ngữ, mỗi phương ngữ có thể chia gồm nhiều tiếng địa phương phương, mỗi tiếng địa phương thường có nhiều thổ ngữ. Các thổ ngữ có một số đặc điểm giống nhau. Có thể quy thành một số thổ ngữ. Như vậy phương ngữ là đơn vị phân chia lớn nhất còn thổ ngữ là đơn vị phân chia nhỏ nhất về một phương ngữ. Phương ngữ, tiếng địa phương, thổ ngữ đều là những biến thể địa phương về mặt phân bố địa lí, phương ngữ thường được phân bố trên một địa bàn rộng lớn, bao gồm nhiều tỉnh, tiếng địa phương có thể phân bố trên địa bàn hẹp hơn trong một tỉnh hay thổ ngữ của một xã. Ở đây tác giả đã phân tích rất rõ ràng phương ngữ, tuy nhiên là một khái niệm, một thuật ngữ văn học cần ngắn gọn và khái quát hơn. Chúng ta có thể hiểu khái niệm phương ngữ theo GS Hoàng Thị Châu như sau: Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác. Trên cơ sở thống nhất khái niệm của GS Hoàng Thị Châu vừa nêu, chúng tôi tiến hành khảo sát tiếng địa phương Quảng Nam được thể hiện trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng.
1.1.2      Khái niệm về từ địa phương
          Để có cơ sở nghiên cứu, thiết nghĩ, chúng ta cần làm rõ khái niệm cơ bản là từ ngữ địa phương. Về định nghĩa từ ngữ địa phương, chúng ta có thể hiểu theo một số định nghĩa sau. Ở khái niệm này có hai yếu tố cần chú ý là từ và ngữ. Nếu ngữ là sự kết hợp các từ, được dùng cố định, nguyên khối trong sử dụng, chủ yếu là thành ngữ, quán ngữ, thì từ là các đơn vị hiển nhiên có nghĩa nhất định, có phạm vi sử dụng nhất định, được xã hội chấp nhận. Vốn từ vựng của một ngôn ngữ gồm có từ và ngữ, gồm nhiều lớp lang, trong đó có lớp từ ngữ địa phương. Đầu tiên, định nghĩa của GS.TS Nguyễn Thiện Giáp: “Từ địa phương là từ được dùng hạn chế ở một hoặc một vài địa phương. Nói chung, từ địa phương là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày của bộ phận nào đó của dân tộc, chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ văn học. Khi dùng vào sách báo nghệ thuật, các từ địa phương thường mang sắc thái tu từ: diễn tả lại đặc điểm của địa phương, đặc điểm của nhân vật,v.v…”. Đây là định nghĩa tuy chưa nói rõ được tính chất biến thể của vốn từ vựng địa phương, nhưng nêu được sắc thái sử dụng trong phong cách của chúng.
          Ngoài ra, trong quan niệm của Nguyễn Nhã Bản với định nghĩa về “từ địa phương là lớp từ cư trú ở một địa phương cụ thể có sự khác biệt với ngôn ngữ văn hóa hoặc với địa phương khác về ngữ âm và ngữ nghĩa”. Còn theo Nguyễn Quang Hồng, thì “từ địa phương là những đơn vị và dạng thức từ ngữ của một vài vùng địa phương nhất định”. Từ những cách hiểu về từ địa phương trên, chúng tôi quan niệm những đơn vị được dùng quên thuộc ở vùng Quảng Nam có sự khác biệt với từ toàn dân thì được gọi một cách ước định là từ địa phương Quảng Nam.
          Tóm lại, có thể hiểu rằng, từ địa phương là lớp từ được xuất hiện ở một địa phương có sự khác biệt với ngôn ngữ toàn dân về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa, là vốn từ quên dùng ở một địa phương. Từ địa phương vốn là bộ phận từ vựng của ngôn ngữ nói hằng ngày chứ không phải là từ vựng của ngôn ngữ thơ ca. Do vậy, khi các từ địa phương được sử dụng trong các sáng tác nghệ thuật chúng sẽ mang lại hiệu quả giá trị nghệ thuật rất độc đáo và tạo nên bản sắc riêng cho thơ ca.
1.2   Vài nét về phương ngữ Nam và từ địa phương ở Quảng Nam
1.1.1      Đặc điểm của vùng phương ngữ Nam
          Như sự phân chia các vùng phương ngữ thì phương ngữ Nam Bộ được tính từ Đà Nẵng trở vào đến cực nam của đất nước gọi là “giọng miền Nam”. Dựa trên những đặc trưng về mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng người ta có thể phân biệt và chia được các vùng phương ngữ.
          Đầu tiên, những đặc điểm về mặt ngữ âm của phương ngữ Nam thì về thanh điệu thì phương ngữ Nam có 5 thanh điệu, khi phát âm thì giữa thanh ngã và thanh hỏi giống nhau, trùng nhau không phân biệt được. Xét về mặt điệu tính thì đây là một hệ thống thanh điệu khác với phương ngữ Trung và phương ngữ Bắc. Về phụ âm đầu thì phương ngữ Nam có 23 phụ âm, các phụ âm uốn lưỡi như [s, z, t] chữ viết thì ghi là s, r, tr. Ở Nam Bộ thì r có thể phát âm rung lưỡi [r]. So với những vùng phương ngữ khác thì phương ngữ Nam không có phụ âm [v] nhưng lại thêm âm [w] (đọc q) bù lại, và không có âm [z] và được thay thế bằng âm [j]. Hệ thống êm đệm thì phương ngữ Nam không có âm [-w-] và thiếu đôi âm cuối [-nh, -ch]. Tuy nhiên, phương ngữ Nam có thể chia thành 3 vùng nhỏ hơn: (1) Phương ngữ Quảng Nam – Quảng Ngãi, ở đây phương ngữ này khác các nơi vì có sự biến dạng của âm a và âm ă trong khi kết hợp với các âm cuối khác. (2) Phương ngữ từ Quy Nhơn đến Bình Thuận mang những đặc tính chung nhất của phương ngữ Nam. (3) Phương ngữ nam Bộ đồng nhất các vần: -in,-it với -inh, -ich và -un, ut với -ung, uc. Các khuynh hướng lẫn lộn s/x và tr/ ch như phương ngữ Bắc, nhưng trong các ngôn ngữ thông tin đại chúng, trong hoạt động văn hóa, giáo dục sự phân biệt các phụ âm trên được duy trì rất có ý thức.
          Thứ hai, về mặt ngữ pháp thì phương ngữ Nam là một phương ngữ nổi bật nhất. Trong hệ thống đại từ chỉ định và nghi vấn thì phương ngữ Nam sử dụng các từ; Nầy, vầy, đó, vậy, đâu, nào, sao, gì... Ngoài ra thì trong hệ thống đại từ xưng hô phương ngữ Nam sử dụng các từ; tao, tụi tui, tụi tao, mầy, tụi mầy, tụi nó, ổng (ông), bả (bà), cổ (cô), chỉ (chị), ảnh (anh)...Tuy nhiên, ở một số nông thôn miền Nam người ở ngôi thứ nhất thường dùng đại từ “tui” để xưng hô giữa bạn bè, giữa những người trong gia đình khi nói với người ngang hàng hay người trên như con nói với bố mẹ, em nói với anh, giống như ở các dân tộc thiểu số, như trong các ngôn ngữ châu Âu. Đây là một ảnh hưởng để lại của ngôn ngữ bản địa trước đây, có hệ thống đại từ nhân xưng trung tính.
          Về đại từ hóa danh từ thì thêm dấu hỏi để biến danh từ thành đại từ là một phương pháp ngữ pháp chủ yếu được sử dụng rộng rãi trong phương ngữ Nam. Ngoài những đại từ nhân xưng như trên đã dẫn ra; ổng, bả, ảnh, cổ...còn hình thành những đại từ chỉ không gian; trỏng (trong ấy), ngoải (ngoài ấy), đại từ chỉ thời gian như; hổm (hôm ấy), nẳm (năm ấy).
          Thứ ba, về mặt từ vựng và ngữ nghĩa thì phương ngữ Nam do sự vận động lịch sử của vùng nên phương ngữ Nam có những từ khác nhau được biểu hiện qua những giai đoạn và những hoàn cảnh khác nhau mà có. Ngoài ra, các từ ngữ của phương ngữ Nam được vay mượn từ tiếng Khơme, tiếng Chăm và từ Hán- Việt nên cũng tạo nên sự đa dạng cho phương ngữ Nam.
1.1.2      Đặc điểm từ địa phương ở Quảng Nam
          Có thể nói rằng từ địa phương Quảng Nam thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày và chủ yếu trong ca dao dân ca Quảng Nam. Ca dao, dân ca là thể loại phổ biến nhất và phát triển rực rỡ nhất trong kho tàng văn học dân gian Quảng Nam. Do gắn liền với lịch sử phát triển của dân tộc nên vùng đất Quảng Nam là nơi hội tụ của nhiều dân cư sinh sống, nơi đây còn là sự cộng hưởng âm sắc của văn hóa dân gian của nhân dân Đại Việt, là sự tiếp biến của văn hóa bản địa nên từ địa phương đi vào thơ ca dân gian với tỉ lệ khá lớn và mang những đặc điểm riêng. Ca dao dân ca Quảng Nam là tấm gương phản chiếu trung thực, sinh động về con người và tính cách của những con người “đầu sóng ngọn gió” mà một thời “phên dậu thứ năm” của Đại Việt. Con người Quảng Nam với những biến động lớn lao của lịch sử dân tộc nên tích cách của họ thật mãnh liệt. Trên mọi lĩnh vực người Quảng Nam đều tỏ ra xông xáo, mạnh dạn, gan dạ, kiêng cường. Chính những điều đó tạo cho ca dao dân ca Quảng Nam mang đậm tính cách của người địa phương Quảng Nam:
“Ta muốn lên non tìm con chim lạ
Chứ giữa phố phường con chim chạ thiếu chi
          Với những câu ca dao đã phản ánh được bản sắc của những vốn từ địa phương của người Quảng Nam. Đó không chỉ là những tính cách kiên hùng, sự mạnh bạo của người Quảng Nam mà trong ca dao dân ca Quảng Nam phản ánh về những đặc tính của vùng đất Quảng, dù trong gian lao vất vả, hiểm nguy, nhân dân xứ Quảng vẫn luôn một lòng hướng về Đảng và Bác Hồ về miền Bắc thân yêu trong đấu tranh chống Pháp- Mĩ:
“Còn trời còn nước còn non
Hễ còn thằng Pháp mẹ còn đấu tranh”
“Cho dù giăc Mĩ trăm tay
Cũng không chia cắt được đất này làm hai”
Hay đó là:
“Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm
Rượu hồng đào chưa nhắm đà say
Tình non nghĩa nặng bao ngày
Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ nhung”
          Ngoài ra, từ địa phương trong ca dao Quảng Nam được nhìn dưới nhiều bình diện như; bình diện từ loại với các từ ngữ địa phương như thực từ, hư từ; dưới bình diện cấu tạo từ như từ đơn âm tiết, từ đa âm tiết, từ ghép, từ láy... Dù dưới bình diện nào thì ca dao dân ca Quảng Nam cũng phản ánh được những lớp từ địa phương rất phong phú và độc đáo bộc lộ được tính cách của người dân Quảng Nam. Chính tiếng địa phương đã làm cho ca dao dân ca Quảng Nam mang một bản sắc riêng, tạo một tiếng nói riêng, góp phần vào sự đa dạng, phong phú của ngôn ngữ dân tộc.
          Trên là vài nét về từ địa phương trong ca dao dân ca Quảng Nam. Tuy nhiên, theo dòng phát triển của lịch sử thì không chỉ trong ca dao dân ca mà cả trong thơ ca Quảng Nam sau này trong thời kì chống Pháp, chống Mĩ cứu nước, tiếng địa phương Quảng Nam vẫn được phát huy và bộc lộ được tinh thần, tình yêu thương của người dân Quảng Nam trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, vùng đất Quảng Nam đã sản sinh ra biết bao anh hùng qua nhiều thế hệ như: Hoàng Diệu, Ông Bích Khiêm, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Châu Trinh, Phan Bộ Châu.... Họ là những con người vừa cầm súng đấu tranh đồng thời cũng vừa cầm bút dũng cảm, kiêng cường mà Bác Hồ kính yêu đã dành tặng cho riêng vùng đất này: “Trung dũng, kiên cường đi đầu giệt Mĩ”.
          Tư duy, khí tiết, tính cách của người Quảng được phản ánh trong thơ ca giai đoạn này phần nào đã khắc họa được bản sắc văn hóa riêng của người Quảng. Tính cách ấy, bản sắc ấy, càng được bộc lộ và tô thắm, bồi đắp, phát triển trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này ngoài những tập tuyển thơ văn nghệ, văn hóa Quảng Nam thì tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng phản ánh sâu sắc công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước cũng như sự nâng cao và tiếp tục sáng tạo nghệ thuật mang âm hưởng dân tộc trở nên phong phú và đầy ý nghĩa mà các tác giả đã giữ được trong quan niệm sáng tạo nghệ thuật của mình. Với tập thơ đã bộc lộ được những dấu ấn trong lịch sử phát triển thứ tiếng riêng- tiếng địa phương của người dân xứ Quảng.
1.3    Vài nét về tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng
          Tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng là tập thơ được tập hợp và giới thiệu của 167 nhà thơ tiêu biểu là những người con đất Quảng Nam- Đà Nẵng, gồm các tác phẩm của những nhân vật lịch sử như Trần Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... thơ của các tác giả đã xuất hiện nhiều năm trên văn đàn được nhiều người biết đến như Phan Khôi, Khương Hữu Dung, Trịnh Đường, Thu Bồn... Những bài thơ đã có tác động mạnh mẽ đến quần chúng những phong trào yêu nước, cách mạng của địa phương và dân tộc. Ngoài ra, trong tập thơ còn có một số tác giả xuất hiện sau năm 1975 đã góp phần phát huy phong trào đấu tranh của quê hương trong những năm tháng đấu tranh và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở địa phương.
          Tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng đã giành một vị trí xứng đáng cho những tác giả ở mọi miền đất nước, cho những người từng sống, chiến đấu ở mảnh đất quê hương. Với tập thơ không chỉ mang lại niềm tự hào cho chính những người con của đất Quảng mà qua tập thơ thể hiện được bản sắc, tính cách của những người Quảng, lấy lòng tự hào về một nguồn cội thiêng liêng và một tiếng nói chân thật, mặn nồng. Nó sẽ là cầu nối cho những lí tưởng cao đẹp, tâm hồn tươi sáng của những con người qua các thời đại cũng như những con người xa quê sống trong quá khứ hào hùng.
          Với việc sử dụng một ngôn ngữ địa phương quên thuộc trong sinh hoạt lẫn lời ăn tiếng nói hằng ngày trong lao động sản xuất các tác giả đã góp phần sinh động hơn cho tiếng Quảng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật cũng như bồi đắp thêm cho ngôn ngữ quê hương. Trong toàn bộ tập thơ, nét nổi bật để khẳng định họ là những con người xuất thân từ đất Quảng phần nào thông qua chính ngôn từ sáng tác. Đó cũng là nét nổi bật mà khi đi nghiên cứu tập thơ chúng ta cần chú ý.



Chương 2  KHẢO SÁT TỪ ĐỊA PHƯƠNG TRONG TẬP THƠ “TRĂM NĂM THƠ ĐẤT QUẢNG”
2.1 Khảo sát từ địa phương qua tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng”
          Với tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng đã phản ánh xuyên suốt chiều dài phát triển lịch sử đất nước, cùng với sự phát triển đó hình thành nên bản sắc riêng cho tiếng nói Quảng Nam. Chính vì vậy mà việc khảo sát từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng người nghiên cứu cũng dựa trên mốc lịch sử để khảo sát. Qua đó thấy được sự tiến bộ cũng như quá trình phát triển của ngôn ngữ Quảng Nam. Ngoài ra, do giới hạn trong khuôn khổ bài tiểu luận và tập trung nghiên cứu từ địa phương nên người nghiên cứu chỉ trích những đoạn thơ có từ địa phương trong những bài thơ của các tác giả để nghiên cứu.
          2.1.1 Khảo sát và phân tích từ địa phương trong tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng”.
1. Gặp việc nghĩa trăm năm thân không tiếc
Làm việc gì chí quyết cho nên
Lòng son dạ đá giữ bền
Chẳng nề ai ghét, chẳng phiền ai thương
Nào là chốn cương trường đua đánh
Nào là trong quốc chánh đấu tranh
Ra vào vạn tử nhất sanh
Chết cho ngàn thuở bia danh mới là
(Tỉnh quốc hồi ca I- Phan Chu Trinh)
          Từ “chẳng nề” là từ địa phương Quảng Nam, nó có nghĩa là “chẳng hề”. Toàn câu là “chẳng hề ai ghét, chẳng phiền ai thương. Từ “chánh, sanh” có nghĩa “chính, sinh”.
2. ...................................................
Đời sao lại có suy có thạnh
Người sao lại có dại có khôn
Lan huệ sao ông làm cho héo hon
Gai góc sao ông lại thả cho khắp non cùng núi
(Giai nhân kì ngộ- Phan Châu Trinh)
3. Này áo áo xiêm thêu, này đai vàng thể bạc
Buông hơi sấm giữa cõi đời rơn rác
Tréo mảy lên xưng ông nọ ông kia
Ô ai ơi! Tốt lốt chưa tề
.....................................
Tò mò hỏi, năm Châu ai lớn nhỏ
Ủa việc ngoại dương tau có biết mô na
Cũng tai cũng mắt cũng người ta
(Phan Bội Châu)
          Trong (2) từ “thạnh” có nghĩa là “thịnh”. Toàn câu “Đời sao lại có suy có thịnh”. Ở thời Phan Châu Trinh từ ngữ còn mang đậm tính trung đại nên từ ngữ mang âm hưởng Hán- Việt nhiều. Ngày xưa người ta nói “thạnh có nghĩa là thịnh” và đi vào câu thơ vẫn còn mang âm hưởng cổ và tạo nét riêng cho tiếng nói Quảng Nam.
          Trong (3) từ “tréo mảy” có nghĩa diễn tả một tư thế ngồi trên cao, hai chân tréo vào nhau, với thái độ thiếu văn hóa, coi thường đối tượng đang trò chuyện với mình “Tréo mảy lên xưng ông nọ ông kia”. Từ “tốt lốt” có nghĩa là “tốt hoặc hay”, từ “tề” có nghĩa là “kìa”- Toàn câu “ô ai ơi! tốt chưa kìa”, hoặc “hay chưa kìa”. Từ “Ủa” biểu thị một trạng thái bất ngờ của người nói trước một vấn đề nào đó, nó cũng có nghĩa là “gì, sao”, từ “ủa” làm chức năng như một từ để hỏi nhưng hỏi với thái độ bất ngờ. Từ “tau” có nghĩa là “tôi” đại từ xưng hô của người Quảng. Từ “mô na” là một tình thái từ, ở hoàn cảnh của câu thơ có nghĩa là “gì đâu”. Toàn câu ta có thể hiểu “Sao việc ngoại dương tôi có biết gì đâu”. Viết những câu thơ mang đậm từ địa phương Quảng Nam tác giả Phan Bội Châu bộc lộ tình yêu quê hương và ca ngợi thứ tiếng nói chân chất của người dân mình. Với những từ tình thái “tốt lốt, tề, ủa, mô na” bộc lộ thái độ của tác giả trước hiện thực đời sống của đất nước trước bọn thực dân Pháp.
4. Hát xướng làm chi hỡi quý quan?
Trời làm hạn hán khổ trăm đàng
.......................................................
(Hát xướng làm chi hỡi quý quan?- Phan Châu Trinh)
         
Hay:                          
“Mập mờ trông thấy bức giang san
Sức nhỏ trời to chửa dễ toan
(Trận bão năm Giáp Thìn ở kinh đô- Phan Châu Trinh)
Từ “chi” có nghĩa “gì”, từ “đàng” có nghĩa “đường”. Từ “chửa” có nghĩa là chưa.
5. Giếng nhỏ ếch thường trương mắt lớn
Đuôi mèo dài chẳng đợi ai khen
Ruồi nghe hơi mật xốn xáo
Cá thấy nồi câu móng búi beng
Chán nỗi nhân tình là thế thế
Ao bùn nên nhận mấy hoa sen
(Cảnh đời- Huỳnh Thúc Kháng)
          Từ “xốn xao” chỉ trạng thái lao xao, mừng rỡ của những con ruồi khi nghe hơi mật. Từ “búi beng” chỉ trạng thái nôn nóng, hấp tấp như không chờ được một việc gì đó. Thông qua những lớp từ ngữ tạo sắc thái biểu cảm, tác giả đã miêu tả sinh động cũng như bộc lộ được những cảnh đời của cuộc sống thực tại.
6. Gà gáy canh hai
Dậy nấu vài củ khoai
Ăn lót lòng buổi mai
trâu vác cày đi đỗi dài
Bắc ách lùa trâu bước xuống ruộng
Ruộng khô đất cứng cày không xuống
, tắc, thá, mãi xế trưa
Mồ hôi như tắm quên ăn uống
................................................
Gặt xong chưa ăn gánh trả nợ
Nhà giàu ăn lãi thiệt quá ngặt
Đồng xanh bồ không mặt buồn xàu
.................................................
Cái khổ nhà nông đói
Vì ai gây nên nỗi
Muốn cưỡi tàu bay, bay thật cao
Thẳng tuốt trên mây níu hỏi trời!
(Người cày- Huỳnh Thúc Kháng)
          Nếu đất Quảng gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước thì trong những câu thơ trên với những từ ngữ quên thuộc đã thể hiện được quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất của người dân đất Quảng. Những từ địa phương “ăn lót lòng” có nghĩa “ăn lót dạ vào buổi sáng, hoặc ăn điểm tâm buổi sáng nhưng ăn rất ít, từ “ví” có nghĩa là “đuổi”, từ “vác” có nghĩa là “gánh”, từ “ví trâu vác cày” diễn tả hành động đi cày ruộng, người nông dân thường hay lấy cái cuốc gánh một đầu chiếc cày, còn đầu kia gánh chiếc ách để tiện cho việc mang đủ công cụ đi ra ruộng một lần, tiết kiệm thời gian đi về lấy dụng cụ nhiều lần hoặc cũng có thể người nông dân chỉ vác chiếc ách trên vai và lùa trâu đi. Từ “bắc ách lùa trâu” diễn tả hành động người nông dân gắn chiếc ách vào cổ con trâu để nối dây từ cổ trâu đến chiếc cày để con trâu kéo cày đi mà không bị rơi ra ngoài. Từ “đi đỗi dài” có nghĩa là “đi một đoạn đường rất dài”. Từ “rì” là một động từ, trong quá trình cày ruộng thì nó có nghĩa là bảo con trâu đi sang “bên phải” của đường cày. Từ “tắc” có nghĩa là “bên trái” đường cày. Từ “thá” có nghĩa là “bảo con trâu quanh đầu lại ở mỗi đường cày xong để tiếp tục đi đường cày khác. Từ “ví” có nghĩa “bảo con trâu đi nhanh lên”. Ở một số địa phương khác như huyện Núi Thành, huyện Hiệp Đức của tỉnh Quảng Nam thì gọi “thá” là sang bên trái đường cày, còn “rì” sang bên phải đường cày. Từ “ăn lãi” có nghĩa lấy lãi khi cho vay tiền, từ “quá ngặt” có nghĩa quá ngặt nghèo, căng thẳng, trong những lúc gặp nhiều khó khăn, đói khát không có tiền lẫn không thóc để trả nợ. Từ “buồn xàu” là một tính từ chỉ trạng thái khuôn mặt con người rất buồn rầu. Từ “thẳng tuốt” có nghĩa chỉ một đường đi hay một cái gì đó rất thẳng mà rất xa, cao vuốt. Trong câu thì nó chỉ đường bay lên trời thẳng vuốt.
          Với những từ địa phương trên phản ánh được những từ ngữ được nảy sinh trong đời sống sinh hoạt, lao động tạo nét riêng cho vốn từ đất Quảng. Đó không chỉ là quá trình lao động sản xuất mà trong tình yêu đôi lứa, từ địa phương cũng được phản ánh sâu sắc trong nhưng câu thơ của Phan Khôi trong khúc Tình già.
7.Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn là không đặng.
Để đến nổi tình trước phụ tình sao, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! buông nhau làm sao nở
Thương nhau chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông trời bắt ta phải vậy?
          Từ “nặng” có nghĩa nặng nghĩa, nặng tình hoặc nhiều tình nghĩa, từ “đặng” có nghĩa “được”, từ “chi” có nghĩa “sao”, từ “sớm liệu” có nghĩa tính trước việc gì đó, từ “bạc” ở câu thơ có nghĩa tội tình, thảm hại, từ “chớ” có nghĩa “chứ” ở đây đặc trưng của phương ngữ Nam nguyên âm “ư” được chuyển thành âm “ơ” ví dụ như: thư -> thơ, gửi -> gởi. Từ “chừng nào hay chừng đó” có nghĩa là “đến đâu hay đến đó”.
8. Dân ta cực đà như chó
Sao quan còn võng đỏ ngáng ngà
..............................................
Ăn cơm vua, cầm quyền nước, ngồi mà lo những chuyện chi chi?
(Đánh đổ quan lại tham nhũng- Trần Quý Cáp)
          Từ “cực” có nghĩa vất vả, khó khăn, cục khổ, từ “đà” có nghĩa “bằng”, từ “chi chi” có nghĩa gì đâu.
9. Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim
Rồi dốc rồi truông leo rồi leo
Rồi khe rồi lạch vòng cù queo
          Từ “vòi vọi” có nghĩa là cao, xa vời vợi, từ “cù queo” có nghĩa cong lại hay co lại. Như trong câu ca dao Quảng Nam “Trái chi trái cuộn cù queo/ mướp tây không phải dưa leo không nhằm” hay “Phường Đông không ngắn không dài/Tân Mỹ củn ngủn Đá Mài cù queo”. Từ “cù queo” được nhắc đến rất nhiều trong ca dao Quảng Nam.
10........................................
Quay quắt những con người nón cời áo vá
Bữa cơm đợi mùa bắp đậu cõng khoai
(Tường Linh)
          Từ “nón cời” chỉ chiếc nón ở trạng thái rách nát ở phần khung chiếc nón chỉ còn đỉnh nón với những lớp lá nón rách. Từ “bắp đậu cõng khoai” chỉ một món ăn quên thuộc dân dã của người Quảng với món bắp trộn với đậu và khoai, đây là món ăn thay thế cơm. Vì ngày xưa đất Quảng còn nghèo khó, cơm không có ăn, nhân dân đói nhiều, người Quảng Nam nấu những món đó để ăn thế cơm.
11.Chuyến tàu lướt trong đêm
Đi về miền xa lắc
Tôi dỗ tôi ngủ yên
(Lê Minh Sơn)
          Từ “xa lắc” là một tính từ có nghĩa “rất xa”. Người Quảng Nam nói về một cái gì đó ở rất xa, ví như một địa điểm nào đó rất xa chỗ sống hiện tại của họ thì hay nói câu “xa lắc, xa lơ, xa tít mù khơi”.
12.Nhỏ mà không học lớn làm ngang
Trống đánh ba hồi đã thấy quan
Ra rạp, ngồi trên ba đứa hiệu
buồng đứng dưới mấy ông làng
(Vịnh hát bội- Huỳnh Quí)
          Từ “làm ngang” có nghĩa là ngang ngược, từ “vô” có nghĩa là vào. Ở đây, người Quảng Nam hay phát âm “ao” thanh âm “ô”. Ví như “hào” thì nói “hồ”, ngọt ngào thì nói “ngọt ngồ”.
13.Mưa từng chặp, gió từng hồi
Ngoảnh lại giang san ngập cả rồi
.................................................
(Nước lụt- Huỳnh Quí)
Từ “chặp” có nghĩa là “lúc, dạo”. Có thể hiểu toàn câu văn “Mưa từng lúc/dạo, gió từng hồi”.
14.Mưa sa nước chảy lên cao ở
Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi
Quân tử có thương xin chớ phụ
Lăng xăng bay nhảy để mà coi.
(Dế dũi- Quỳnh Quí)
          Từ “lăng xăng” là một động từ diễn tả động tác chạy qua chạy lại hoặc lên cao xuống thấp một cách nhạnh nhẹn, liên tục, bận rộn. Nó gần với từ “chập chờn”.
15.Hỡi ơi!
Trong nhơn thế quan âm dễ mấy
Chưa chi mà trở mấy âm dương
..................................................
Da mồi rực rỡ!
Nón cời tơi rách chịu nắng mưa
Mặt dòng nước sông nuôi con vợ
......................................................
(Văn tế ông chài- Quỳnh Quí)
          Từ “nhơn” có nghĩa là “nhân”. Trong phát âm của người Quảng thì nguyên âm “â” phát thành “ơ” khi liên kết với các từ khác. Từ “nón cời tơi” giống với giải thích ở bài (8).
16.Ôi thôi thôi!
Mẻ hết chỗ mài
Gãy không thể nổi
...............................
Thảm thiệt bấy mấy đời tiền tặn, chịu ăn hoài dao lụt hơn chín mười năm
..................................................
Từ đây mà choẻn nọ xa khâu, bề cạp nãi biết bao giờ gặp mối
Hôm nay hẩy lò than un giác đỏ, ngọn lửa hương thêm nóng ruột trăm chiều
Ngày mai vừa lát cuốc đắp mồ xanh, nắm đất đỏ đã chôn tình một khối.
(Văn tế thợ rèn- Huỳnh Quý)
          Từ “mẻ” có nghĩa là chỉ vật bị vỡ nhưng chỉ vỡ một mảnh nhỏ, từ “bấy mấy” có nghĩa “biết mấy”, từ “tiền tặn” có nghĩa tiết kiệm từ chút một. Từ “choẻn nọ” có nghĩa “không bao giờ”.
17.Ủa ủaNhơn sao đến nổi này
Ờ! Dây danh lợi buộc mình đây
Bên tai rổn rảng dường đeo ngọc
Dưới bụng xênh xang tựa thắt đai
Cái tháp Trần Phồn ngồi bén đít
Khúc đờn Dũ Lý khẩy theo tai
Mình ốc mang rêu rửa sạch ai
Quen thói rung cây nhát khỉ hoài
Mèo quào phên đất chi khờn sức
Sứa nhảy của đăng mới gọi tài
Khó nổi đem lòng ràng vó ngựa
Dễ đâu lấy thúng úp mình voi
Trông qua chưa khỏi đừng khinh khái
Chim sẩy lồng ra để đó coi
(Ông Bích Khiêm)
          Từ “ủa ủa” giải thích giống từ “ủa” trong câu (3) chỉ trạng thái bất ngờ. Từ “nhơn” có nghĩa “nhân”, trong câu chỉ nghĩa “người”, từ “rổn rảng” chỉ âm thanh phát ra giống âm thanh một viên bi nhỏ bỏ vào trong một chiếc bình khi rung thì nó phát ra âm thanh rổn rảng. Từ “xênh xang” chỉ trạng thái chiếc thắt đai (có nghĩa thắt lưng giữ sợi dây thắt với đai quần) rơi ra hoặc gồ ghềnh gây cảm giác khó chịu, từ “ngồi bén đít” chỉ trạng thái ngồi đau mông. Từ “đờn” có nghĩa là “đàn”, từ “khẩy” có nghĩa “phả”, từ “quào” có nghĩa “cào”, từ “phên đất” chỉ bức tường rào làm bằng lạt tre và đất sét để rào quanh nhà ở, từ “chi khờn” có nghĩa là không lo mất sức, bền bỉ, dai dẳng. Từ  “ràng” có nghĩa “cột, buộc”.
18.Bíu ríu đương thương khó nỡ lìa
Trong lòng bó rọ khó bề kia
Người đời rối nỗi không đồng mộng
....................................................
Thuở nọ vì chi cợt thốt thề
(Nỗi lòng- Phạm Như Xương)
          Từ “bíu ríu” là một tính từ chỉ trạng thái lưu luyến, luyến tiếc, đang say đắm tình yêu. Từ “bó rọ” là tính từ chỉ sự bó buộc/cột một cách chật chội, cọ sát, gây cảm giác khó chịu cho con người. Từ “chi” có nghĩa là “gì/ đâu”, từ “cợt” có nghĩa đùa cợt.
19. Loài ở lộn bùn cũng mọc râu
Ngo ngoe nỏ biết mốc gì đầu?
Cong lưng cứ ỷ tài đâm bắn
Lố mắt khôn dò lạch cạn sâu
Ngoài lôm xôm càng múa gọng
Dỡn rồng ta bảo đừng quên thói
Một nhũi là xong lựa tát, câu.
(Vịnh con tôm- Trần Cao Vân)
                   Từ “lộn” có nghĩa là lẫn lộn, trộn lẫn trong một cái gì đó, trong câu có nghĩa “loài ở trong bùn cũng mọc râu”, từ “ngo ngoe” là phây phẩy, từ “nỏ” có nghĩa là “không”, đây là một phương ngữ Trung, từ “nỏ” được người dân Nghệ Tĩnh nói nhiều. Do nằm trong làn ranh giữ phương ngữ Trung và phương ngữ Nam nên Quảng Nam là một vùng chuyển tiếp, tiếp biến phương ngữ mang âm hưởng của phương ngữ Trung. Từ “ngoài ủ” là danh từ chỉ ngoài “sân”, từ “lôm xôm” có nghĩa là lộn xộn, không theo một trận tự, từ “dỡn” có nghĩa “đùa cợt”, từ “nhũi” có nghĩa là “nhát/ mũi”, trong câu có nghĩa là một nhát dao là xong lựa tát, câu.
20.Mặc ai chẳng thềm lo
Chưa gặp thời âu tạm chống đò
Sông rộng lão toan cầm lái vững
Lạch sâu mụ hãy cắm sào dò
(Vịnh vợ Chồng lái đò- Trần Cao Vân)
          Từ “mụ” có nghĩa chỉ người đàn bà, đại tự nhân xưng chỉ người phụ nữ đứng tuổi (có tính bình dân)
21.Xe trở bánh gần hết khúc eo
Trông chồng chi lắm mặt buồn teo
Thân chàng chắc vững không nao núng
Dạ thiếp đừng lo chút mẻo meo
Trướng liễu xử màn khuyên hãy giấc
Vườn đào sẵn giống để rồi gieo
Thung dung mặc sức cùng nhau sẽ...
Chót núi thôi đừng ngó mỏi nheo
          Từ “khúc eo”chỉ đoạn đường có khúc cong, hay một coi đường cong nhỏ và hẹp lại. Từ “buồn teo” là tính từ diễn tả trạng thái rất buồn của con người, buồn hiu. Từ “chút mẻo meo” có nghĩa là một một cái gì đó rất nhỏ, bé tí, cỏn con. Trong câu có nghĩa lòng dạ người con gái đừng lo lắng đến điều gì dù điều rất nhỏ, không đáng kể như vậy. Từ “thung dung” có nghĩa là “ung dung”, diễn tả trạng thái rất thỏa mái, tự nhiên của con người. Từ “chót” có nghĩa là ở “cuối cùng” chỉ cái gì đó ở phía cuối, trong câu là “cuối núi”. Từ “ngó” có nghĩa nhìn/ xem, từ “mỏi nheo” chỉ trạng thái mắt người nhìn theo một ai đó ở rất xa cần phải nhíu mắt lại, gây mỏi mắt. Với cách vận dụng từ địa phương trên mang lại cho câu thơ hiệu quả gieo vần rất tinh tế.
22. .................................
Lời nguyền trước cũng như sau
Gian nan phải chịu, sang giàu cùng vui
Bếp lửa vùi túi thui không thổi
Mượn vầng trăng đêm đổi đêm thu
(Giữ lời nguyện ước- Trần Cao Vân)
          Từ “vùi túi thui” có nghĩa vùi tối bếp lửa, làm cho bếp lửa tắt, không thổi than củi cho cháy sáng lên.  
          Ngoài những từ ngữ trên thì trong giai đoạn vặn học này, những từ láy ba, láy tư cũng được đưa vào, góp phần thể hiện phong cách nói năng của người Quảng. Những bài thơ dành cho thiếu nhi của Võ Quảng như:
23. Một chị gà mái
Mặc chiếc áo nâu
Màu đỏ hoa dâu
Cánh hồng búp chuối
Xăm xăm xúi xúi
Tìm kiếm quanh nhà
Chạy vào chạy ra
Lấc la lấc láo
..............................
Chạy ra ảng nước
Uống ngậm nước mưa
(Bà chị gà mái-  Võ Quảng)
          Chỉ nhìn vào tiêu đề của bài thơ ta cũng nhận thấy bài thơ đó của người Quảng Nam. Ở Quảng Nam nhiều vùng vẫn hay gọi những con vật là “bà” ví như; bà trâu, bà lợn, bà chuột, bà gà.... Với những từ láy “Xăm xăm xúi xúi” tạo được sự hòa phối âm thanh giữa các tiếng trong từ, chủ yếu là phụ âm đầu và vần, làm cho câu thơ sinh động, giàu biểu cảm, mới lạ. Từ “xăm xăm xúi xúi” chỉ sự lây hây, không tập trung, nhìn và chạy khắp chỗ của con gà. Từ “lấc la lấc láo” chỉ hành động chạy ra chạy vào một cách lấc láo, có chút tò mò nôn nóng trong việc tìm kiếm mồi. Từ này nhiều người Quảng hay nói “lấc láo lấc lưỡng”. Những từ láy tư này trong ca dao Quảng Nam cũng rất sinh động như: “Lui hui lúc húc trong nhà/ Ăn bốc ăn hốt ú na ú nần”. Chính những từ láy này tạo nên phong cách mới lạ, trẻ trung trong ca dao lẫn thơ ca xứ Quảng. Từ “ảng” có nghĩa là cái “chum” đựng nước, được đúc bằng cát trộn với xi măng và nước, có hình trụ tròn, có lỗ lù thoát nước, giống những chiếc chum trong cánh đồng chum ở nước Lào.
24. Chiều cuối năm chưa xuống
Sương xuống nhiều hơn mưa
Bứt lá bỏ dòng suối
Thả xuân về dưới kia
Nơi đụn rơm vợi nửa
(Bứt lá bỏ dòng suối- Hoàng Yến)
          Từ “bứt” có nghĩa là “cắt, ngắt” hoặc “hái”, từ “đụn rơm” có nghĩa là một “ụ rơm” hoặc được hiểu theo rơm rạ được chất thành một đống, khối.
25. Nhớ những thuở xưa nào
Ngọt ngào trong nôi ấm
Mẹ che ngọn gió lộng
Mẹ chặm giọt mồ hôi
Mẹ ơi! mẹ cắt đứt tao nôi
Chúng muốn giồi con xuống biển
..................................................
Đêm đêm con đứng trên đất Bắc
Tiếng hát vọng về xa lơ xa lắc
Tiếng hát quá giang
Xuôi về Hội An
(Tiếng hát chiều chiều- Hoàng Yến)
          Từ “chặm” có nghĩa là “lau”, ở câu thơ là “mẹ lau giọt mồ hôi”. Từ “giồi” có nghĩa là “dìm”, ở câu thơ có nghĩa là “chúng muốn dìm con xuống biển”. Từ “xa lơ xa lắc” là một tính từ chỉ độ xa, ở đây có nghĩa chỉ một nơi nào đó rất xa, khuất tầm mắt của con người. Từ “quá giang” có nghĩa là “đi nhờ”.
26. Ai hỏi anh rằng tôi có quên,
Hay là son phấn khiến tôi thèm?
Đờn ai reo rắt chìm trôi ngọc
Đèn đỏ quay cuồng, quê hết men?
Ai hỏi chi lời xót dạ nhau
Tin là tin trước đến tin sau
Dù mai, dù mốt, dù sao nữa,
Đã nhớ nhau là tin có nhau
(Khuya sương- Hà Kiều)
          Từ “đờn” có nghĩa là “đàn”, từ “chi” có nghĩa “gì”, từ “mốt” trong câu thơ ý nói ngày tiếp theo của ngày mai, ngày kia. Một số vùng địa phương Quảng Nam hay gọi ngày theo kiểu “ngày mai, ngày mốt, ngày kia, hôm xưa, hôm tê”.
27. Trong khóe mắt ráo rồi ngấn lệ
Không có lí lúc ruộng đồng đương tuyên thệ
mình ra cho Tổ quốc lớn lên
Anh lại khóc bên em
mãi vết thương chung tê buốt.
Anh chỉ nói với em- lời thơ sau chót:
Em là tất cả quê hương
Lắm gian nan nhưng cũng rất đổi quật cường
Em đã bước qua đầu chúng nó
(Em là tất cả quê hương- Trần Nguyên)
          Từ “đương” có nghĩa là “đang”, từ “xé” có nghĩa là cắt ra, làm rách đi. Từ “chót” có nghĩa là sau cùng, cuối cùng. Trong câu thơ có nghĩa; “Anh chỉ nói với em- lời thơ cuối cùng”.
28. Thủ đô đã mấy lần lừa phỉnh
Em cùng ta về lục tỉnh nghe không
Để nhớ lại lần xưa em đã định
Cùng ta đi ngó cỏ nội hoa đồng
(Chào thu lục tỉnh- Bùi Giáng)
          Từ “phỉnh” có nghĩ là “lừa dối, dối trá”, từ “ngó” có nghĩa “nhìn”. Là một tác giả nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam và thế giới, ở Bùi Giáng khi tìm về với cõi thơ thì tâm hồn ông vẫn hướng về quê hương, vẫn bộc lộ tính cách và ngôn ngữ người Quảng trong sáng tác.
29. Trước giờ ra pháp trường
Nguyễn Duy Hiệu ngồi trong cũi gỗ
Bình tĩnh đưa cao ngọn bút thỏ
...............................................
Nét bút lượn bay
Như những nhát gươm thần
Bọn đao phủ rợn người...toàn thân mọc ốc
............................................
Thơ tuyệt mệnh
Cứ hừng hừng
Hừng hừng như ngọn lửa
Của hồn người trung liệt, mãi còn đây
(Đọc những vần thơ “tuyệt mệnh”- Nguyễn Dũng Hiệp)
          Từ “cũi gỗ” có nghĩa “củi gỗ”, người Quảng Nam khi phát âm thì dấu “hỏi” và dấu “ngã” được phát âm như nhau nên khi nói khó có thể phân biệt được. Từ “bút thỏ” là loại bút lông được dùng để viết chữ Hán- Nôm. Từ  “mọc ốc” là nổi gai ốc, từ “hừng hừng” có nghĩa bộc lộ sắc thái ửng đỏ, nóng và sáng. Từ này người Quảng hay sử dụng khi nói về cái nóng và ửng đỏ, ví như “cái mặt mi làm gì mà hừng hừng vậy?”.
30. Có người thường hỏi thăm tôi
Viết trang tình tới hồi chót chưa?
Có trăng vàng ngập phên thưa?
Có đêm chăn ngối nghe mưa ngoài trời?
..........................................................
Ai làm cho tóc bạc đầu?
Cho câu kì ngộ thành câu giã từ?
Đã đành là việc riêng tư,
Đã đành là để tờ thư võ vàng,
Đã đành lắm chuyến đò ngang
(Thì trang tình sử- Tạ Ký)
          Từ “hồi chót” có nghĩa “hồi cuối/ chương cuối” của cuốn sách. Từ “phên” chỉ bức tường rào đan bằng lạt tre (đan dày), quét lên với lớp đất sét hoặc phân trâu để kín các lỗ trống giữa các khe lạt, thường để làm tường rào quanh nhà ở. Từ “võ vàng” có nghĩa “dỡ dang”, không đến nơi đến chốn.
31.Viết một bài thơ buồn nữa đây
Đêm đêm ngồi đếm đốm sao gầy,
Chao ôi ba chục năm trời nhỉ?
Mà vẫn còn mơ nguyệt mái Tây!
................................................
Tuổi trẻ đã đành khờ khạo quá,
Ái tình đâu đến kẻ thơ ngây!
Thời hai mươi ấy xa lăng lắc,
Khói lửa còn cay đôi mắt cay.
Chạnh chút niềm riêng ai oán tí,
Thương mà không nắm trọn bàn tay
Tóc ai xanh phủ cù lao gối,
Phấn bướm bay đầy giác bướm bay.
(Hoài- Tạ Ký)
          Từ “đốm sao” có nghĩa là một chòm sao, từ “nhỉ” là một trợ từ nhằm nhấn mạnh câu hỏi, bộc lộ sắc thái của người nói. Từ “khờ khạo” có nghĩa khờ dại, không khôn ngoan, chín chắn, từ “xa lăng lắc” giống với từ “xa lơ xa lắc” là tính từ chỉ một khoảng cách rất xa, khuất tầm mắt con người. Từ “cù lao gối” có nghĩa là “đầu gối” một bộ phận trên cơ thể người, chỉ những gì cao lên, nhô lên khỏi một mặt phẳng thì gọi là cù lao, giống như đảo Cù Lao Chàm. Ở đây, biện pháp hoán dụ được vận dụng độc đáo.
32. Củi ướt, rừng khuya
Những chiến dịch dài
Chảo nồi lịch kịch
Những giờ truy kích
................................
Rồi tôi nghĩ hồi mình còn nhỏ,
Hễ mỗi lần canh dở, cơm khê,
Thì mình cũng bực cũng chê,
Mà sao cha mẹ chẳng hề ghét con?
.......................................
Lỡ bữa nào cá oi, rau úng
Lòng tôi buồn như mủng cơm khô
Bữa nào đồng đội ăn no
Tôi thấy vui cả bếp tro hóa hồng!...
(Thương nhất anh nuôi- Tạ Ký)
          Từ “lịch kịch” có nghĩa ghồ ghềnh, nặng nề, diễn tả hành động mang chảo nồi nhiều và nặng. Từ “hễ” được hiểu như là “nếu”, từ “canh dở” có nghĩa là không ngon, trong câu thơ có nghĩa là thức ăn không được ngon. Từ“cơm khê” có nghĩa là chỉ cơm bị hôi mùi khói, có mùi gần thiu. Từ “oi” trong cá oi có nghĩa là cá ươn, từ “oi” có nghĩa là ươn/ cũ/ rã, từ “úng” hiểu là rau bị ngập nước và úng vàng. Từ “mủng” là danh từ chỉ cái thúng đụng lúa nhỏ (khoảng 2 ang = 60 lon sữa bò).
33. Hùng có mái nhà tranh nhỏ
Và một người yêu vò võ đợi chờ
Hàng dương quanh năm cãi lời ngọn gió
Mái tranh nghèo gió đánh xác xơ
..................................................
Bờ nước lặng em cao tiếng hát
Nước chảy triều lên dào dạt ghe mành
.....................................................
Bữa cơm ăn sum vầy bên bếp lửa
Mẹ so đũa thừa lại nhắc tên ta
(Bài ca chim Chơrao- Thu Bồn)
          Từ “vò võ” là chỉ cái gì đó nho nhỏ, bé bổng, trong câu có thể hiểu có một người yêu bé bổng luôn luôn chờ đợi, từ “ghe mành” là chỉ chiếc thuyền được đan bằng mành tre. Từ “so đũa” có nghĩa là trong một bó đũa chọn những chiếc đũa bằng nhau để gắp thức ăn.
          Ngoài những từ ngữ phản ánh nét sinh hoạt hằng ngày của người dân đất Quảng thì Quảng Nam trên con đường Nam tiến của Đất Việt xưa còn được bồi đắp bởi những nét văn hóa phong phú đa dạng. Người Quảng Nam có đủ cơ sở để tự hào về mảnh đất quê hương với những truyền thống văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể. Đêm phố cổ với những bài chòi, bài hò khoan:
34. Bài chòi hội chợ đê mê
Đèn lồng thắng sáng trăng thề phố đêm
Sông Hoài thuyền nhẹ êm êm
Chùa Minh Hương đó, khói hương khấn nguyền
(Hội An trong trái tim tôi- Hồ Thanh Danh (trích từ tập thơ Dấu Xưa Đất Quảng)
          Bài chọi là tên gọii riêng chỉ có ở vùng đất Quảng Nam, chỉ những bài hát đối đáp xưa gần như hát quan họ. Ngoài ra, một số từ ngữ thể hiện rõ nét văn hóa ẩm thực của người xứ Quảng như: mì Quảng, cao lầu, bánh ít lá gai, bánh tráng...đã trở thành những món ăn đặc sản của từng vùng địa phương:
35. “Đợi ta về...Bánh tráng đập vườn quê
Món Cao lầu- Hoành thánh- Bánh su sê
Đặc sản quê hương mùi lá gai bánh ít
Hoài phố ơi! Sông thơ tình thắm thiết.
(Hành trình di sản- Thanh Bình (trích tập thơ Dấu xưa đát Quảng)
          “Bánh tráng đập” đây là một món ăn dân dã của người Quảng Nam, bánh tráng được nướng lên và đập với mì lá ướt. “Cao lầu” là một món mì đặc sản của Hội An, sợi mì vàng, thường ăn với tôm, thịt heo, rau sống và một số loại khác. “Bánh su sê” là từ đọc chệch của bánh phu thê, được làm từ bột nếp, đậu xanh và dừa. “Bánh ít lá gai” là bánh được làm bằng bột nếp và lá gai giã nhuyễn, có loại ngọt nhân đậu xanh, loại mặn nhân tôm thịt.
          Quan đó ta thấy được nền văn hóa Quảng Nam được hình thành từ nhiều yếu tố đa dạng và phong phú, với việc vận dụng từ địa phương một cách đắc địa các tác giả đã tạo nét riêng cho người Quảng. Nét riêng ấy ẩn sau gắn liền với từng vùng văn hóa, từng địa phương, từng phong thái cũng như phong cách của con người đất Quảng.
          Trên đây là quá trình khảo sát những từ địa phương có trong thơ Quảng Nam, với việc khảo sát 35 bài thơ trong tập Trăm năm thơ đất Quảng, phần nào đã chỉ được sự sinh động của những lớp từ địa phương.
Ø  Quy ước:
Từ loại danh từ: In đậm
Từ loại động từ: In đậm, gạch chân
Từ loại tính từ: In đậm, in nghiêng
Từ loại đại từ: In đậm, in nghiêng gạch chân
Từ loại phụ từ: không in đậm, hai vạch gạch chân
Từ loại khác: không in đậm, một vạch gạch chân
        2.1.2 Bảng thống kê từ loại từ địa phương trong tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng”
          Với 35 bài thơ có đến 138 lượt từ địa phương được sử dụng trong tập thơ Trăm năm đất Quảng, chúng thuộc vào nhiều từ loại khác nhau và phân bố theo tỉ lệ khác nhau như trong bảng thống kê và phân loại sau
          Bảng khảo sát được tính theo công thức tỉ lệ phần trăm
                  Số lượng của từng từ loại địa phương
Tỉ lệ % =                                                         . 100%
                  Tổng số lượng từ địa phương có trong tập thơ

Từ loại
Danh từ
Động từ
Tính từ
Đại từ
Phụ từ
Từ loại khác
Tổng cộng
Số từ
53
39
23
2
13
8
138
Tỉ lệ
38,4%
28,3%
16,7%
1,4%
9,4%
5,8%
100%
* Nhận xét: Qua bảng thống kê ta thấy với 35 bài thơ trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng, số lượt từ địa phương có mặt trong 35 bài là 138 từ, như vậy số lượt từ địa phương chiếm một tỉ lệ khá cao. Trong đó, từ loại danh từ chiếm 38.4%, động từ 28,3%, tính từ 16,7%  nhóm từ loại này xuất hiện với tần số khá cao so với một số từ loại khác như phụ từ, đại từ. Những lớp từ đó thể hiện những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm, tính chất quen dùng của người dân Quảng Nam. Bên cạnh đó thể hiện được hiện thực đời sống của người dân địa phương này.
2.2 Vai trò của từ địa phương trong tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng xưa”
2.2.1 Từ địa phương phản ánh chân thực đời sống của người địa phương Quảng Nam
          Ngôn ngữ là công cụ sáng tạo của văn học. Trong sáng tác văn học ngôn ngữ là dụng cụ chủ yếu góp phần tạo nên cái hay cái đẹp cho tác phẩm nghệ thuật. Thơ ca xứ Quảng cũng vậy, chính nhờ việc sử dụng lớp từ địa phương- một ngôn ngữ thân mật, bình dị của người Quảng đã thể hiện một cách chính xác về sinh hoạt đời sống và tâm hồn, tính cách người Quảng. Nếu gọi thơ là tiếng nói hồn nhiên, rất hồn nhiên mà sâu thẩm của con người trước cuộc đời và đất trời thì thơ ca Quảng Nam đã bộc lộ được những nỗi niềm của con người trước thực tại đời sống, trước những đau thương mất mác; “Dân ta cực đà như chó/ Sao quan còn võng đỏ ngáng ngà...ăn cơm vua mà làm những chuyện chi chi?”. Trước thực tại đất nước bị bọn thực dân thống trị, nhân dân rơi vào cảnh lầm than, đói khổ vậy mà những vị quan chỉ biết ăn chơi, không lo cứu dân, cứu nước.
          Hay đó là cái chết đau thương, sự hy sinh của cô em gái nhỏ xé mình bảo vệ Tổ quốc trong những năm tháng chống Mĩ trong bài thơ “em là tất cả quê hương của Trần Nguyên”. Sự có mặt của các từ địa phương “cực đà” bộc lộ sự vất vả, khó khăn của nhân dân ta, mình bảo vệ Tổ Quốc, thể hiện tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của lớp thanh niên trẻ Quảng Nam trong công cuộc bảo vệ đất nước. Đó còn là những lúc hành quân trong núi rừng đầy vất vả, lưng mang nặng chảo, nồi, những lúc mua dầm ướt củi không có nấu ăn. Từ “lịch kịch” theo cách hiểu người Quảng Nam là nặng nề, ghồ ghềnh. “Củi ướt, rừng khuya/ Những chiến dịch dài/ Chảo nồi lịch kịch/ Những giờ truy kích”. Những năm tháng đấu tranh chống Pháp- Mĩ là những năm tháng đầy đau thương, vất vả, hy sinh của người Quảng Nam. Là một mãnh đất “trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mĩ, Quảng Nam thật đáng được nghi nhận là một vùng đất anh hùng của Tổ quốc.
          Ngoài việc phản ánh những năm tháng đấu tranh thơ ca Quảng Nam còn là thể hiện quá trình lao động sản xuất của nhân dân: “Gà gáy canh hai/ Dậy nấu vài củ khoai/ Ăn lót lòng buổi mai/ trâu vác cày đi đỗi dài/ Bắc ách lùa trâu bước xuống ruộng/ Ruộng khô đất cứng cày không xuống/ Rì, tắc, thá, ví mãi xế trưa”. Người nông dân ra đồng phải dậy từ rất sớm nên họ không có thời gian để nấu ăn một cách công phụ, cũng như không có đủ gạo để nấu, nên họ chỉ “ăn lót lòng” với vài củ khoai. Lớp từ phản ánh hoạt động cày ruộng trong quá trình cay cũng rất đa dạng “rì, tắc, thá, ví” đây là những biến thể của âm, những âm thanh nảy sinh trong lao động nông nghiệp. Qua đó có thể thấy được với những lớp từ địa phương đa dang, hấp dẫn thơ ca Quảng Nam đã phản ánh được hiện thực đời sống, lao động sản xuất của người dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
2.2.2  Vài trò hiệp vần đem lại giá trị nghệ thuật sâu sắc cho thơ ca
          Vai trò thứ hai của lớp từ địa phương trong thơ ca Quảng Nam có thể kể đến đó là sự hiệp vần. Chính nhờ có sự hiệp vần, gieo vần mà những câu thơ trở nên nhịp nhàng, có vần điệu hơn. Chức năng của vần là tạo sự ngắt nhịp, cũng như tạo sự liên kết giữa các câu thơ:
Xe trở bánh gần hết khúc eo
Trông chồng chi lắm mặt buồn teo
Thân chàng chắc vững không nao núng
Dạ thiếp đừng lo chút mẻo meo
Trướng liễu xử màn khuyên hãy giấc
Vườn đào sẵn giống để rồi gieo
Thung dung mặc sức cùng nhau sẽ...
Chót núi thôi đừng ngó mỏi nheo
Vận dụng những từ địa phương trong cách gieo vần “eo” tạo hiệu quả cho câu thơ trở nhịp nhàng, dễ đi vào lòng người, dễ nhớ và tạo sự linh hoạt cho câu thơ. Tương tự trong câu “Rồi dốc rồi truông leo rồi leo/ Rồi khe rồi lạch vòng cù queo”.
          Ngoài ra, nhiều trường hợp đã có từ toàn dân dùng được từ lâu nhưng để đảm bảo vai trò hiệp vần, các tác giả đã chọn những từ địa phương để tạo ra tính hiệp vần cho lời thơ: 
Nào là chốn cương trường đua đánh
Nào là trong quốc chánh đấu tranh
Ra vào vạn tử nhất sanh
Chết cho ngàn thuở bia danh mới là
Từ “chánh” có thể dùng từ “chính”, từ “sanh” có thể dùng từ “sinh”. Nhưng trong câu thơ thì từ “chánh và sanh” thực hiện vai trò hiệp vần với từ “đánh, danh”, như vậy sẽ tạo sự liên kết chặt chẽ, liền mạch cho câu thơ.
2.2.3 Tạo nên những nét riêng mang đậm tính địa phương Quảng Nam
Người Quảng có đủ cơ sở để tự hào về mảnh đất quê hương. Đó là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, một mảnh đất trù phú và tươi đẹp. Lê Quý Đôn đã không ngớt lời ca ngợi đất Quảng. Đó là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nên không chỉ giàu có về khoáng sản, những ngành nghệ thủ công mà nét văn hóa ẩm thực cũng vô cùng hấp dẫn với những món ăn dân dã: “Cao lầu- đặc sản ngẩn ngơ khách mời”. Cao lầu là một món ăn đặc sản của Hội An. Ngoài ra thì Quảng Nam còn nổi tiếng với món Mì Quảng, món ăn được làm từ bột gạo đem tráng thành từng bánh mỏng, thoa dầu lạc và thái thành từng sợi, khi dùng chan với nước được đế biến từ tom, thit lợn hoặc thịt gà, ăn kèm cùng với rau sống và một số thứ khác. Món ăn này chỉ có ở Quảng Nam. Ngoài ra, Quảng Nam còn một số món như: Bánh quai vạc, bánh ít, bánh khô, nổ, bánh khô mè, bánh tráng đập, bánh tráng thịt heo, nem lụi, bún chợ Chùa, nước mắn Nam Ô....
“Đợi ta về...Bánh tráng đập vườn quê
Món Cao lầu- Hoành thánh- Bánh su sê
Đặc sản quê hương mùi lá gai bánh ít
Hoài phố ơi! Sông thơ tình thắm thiết.”
                   Trong ca dao Quảng Nam cũng đã từng có câu nói “Muốn ăn bánh ít lá gai/ Lấy chồng xứ Quảng cho dài đường đi”. Xứ Quảng quả thật là một vùng văn hóa với sự lung linh đa dạng của nét ẩm thực. Qua đó thấy được thơ ca Quảng Nam phản ánh được những nét riêng chỉ có ở địa phương Quảng Nam, tạo nên nét đặc thù của người Quảng mà những địa phương khác không có.
          Xứ Quảng là mãnh đất đấu tranh, mảnh đất anh hùng nên tính cách người Quảng thường mãnh liệt, thẳng thắn. Nhiều bài thơ thể hiện tinh thần chiến đấu, chống thuế, đình công: “ Ờ té ra/ Mền thì ai cũng rắn/ Rắn thì ai cũng nhả/ Hàng ha sa số cu li quạ/ Bay về hại giới kêu khá khá” (trích Dân đình công – Trần Quý Cáp). Đó còn là những con người dũng cảm, sẳn sàng hy sinh vì chính nghĩa, lòng dạ sắc son với quê hương đất nước: “Gặp việc nghĩa trăm năm thân không tiếc/ Làm việc gì chí quyết cho nên/ Lòng son dạ đá giữ bền/ Chẳng nề ai ghét, chẳng phiền ai thương”.
          Tóm lại, từ địa phương Quảng Nam xuất hiện trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng với một tỉ lệ khá lớn đã tạo nên những màu sắc riêng cho thơ ca vùng đất này. Đó là tính chất dân dã, mộc mạc, bình dị của những lời thơ. Những lớp từ đó không chỉ phản ánh được hiện thực cuộc sống đấu tranh của con người mà còn tạo được tính vần điệu cho thơ ca, tạo nét riêng biệt cho xứ Quảng. Với những lớp từ ngữ đó góp phần phong phú và đa dạng vốn từ dân tộc trong mạch nguồn chung của vốn từ Tiếng việt.








































C.   KẾT LUẬN
Quan việc khảo sát từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng cho thấy, với sự tham gia của những lớp từ địa phương càng làm tỏ rõ khả năng phản ánh sinh động, đa dạng cuộc sống lao động, chiến đấu của nhân dân xứ Quảng trong hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tiếng địa phương Quảng Nam còn là một hình thức biểu hiện độc đáo, tỏ rõ sức mạnh biểu nghĩa và biểu cảm, góp phần tạo nên dấu ấn của văn hóa Quảng Nam trong nền thơ ca đất Quảng. Với việc khảo sát 35 bài thơ ở góc độ từ loại đã có đến 138 lượt từ địa phương được xuất hiện với nhiều loại từ loại khác nhau thể hiện sự sinh động, phong phú về vốn từ ngữ cũng như sự giàu có về vốn từ sử dụng để gọi tên sự vật, hiện tượng khác với cách gọi tên của từ toàn dân.   
Qua đó cũng thấy được rõ nét hơn về hiệu quả sử dụng từ địa phương trong sáng tác nghệ thuật, làm cho những câu thơ trở nên nhịp nhàng, mạch lạc, trôi chảy, góp phần tạo nên những nét phong cách riêng cho vùng Quảng Nam.
Về phía người nghiên cứu, khi lựa chọn đề tài từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng để nghiên cứu phần nào đã thực hiện tốt các vấn đề liên quan tới đề tài cũng như các luận điểm đặt ra. Với đề tài “Khảo sát từ địa phương trong tập thơ Trăm năm thơ đất Quảng sẽ là nguồn tài liệu vô cùng phong phú phục vụ cho việc nghiên cứu về văn hóa và con người Quảng Nam và với đề tài sẽ mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới.

























D.   TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Huỳnh Như Phương, tập thơ “Trăm năm thơ đất Quảng”, NXB Hội nhà văn, 2005
2.     Nhiều tác giả, “Dấu xưa đất Quảng”, NXB Đà Nẵng, 2004
3.     Bùi Thị Lân, Giáo trình “Phương ngữ học”.
4.     Đinh Thị Hựu (sưu tầm, giới thiệu), “Tiếng địa phương trong ca cao vùng Quảng Nam, Đà Nẵng”, NXB Văn hóa dân tộc, 2011.



Previous
Next Post »
Thanks for your comment