A.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những sáng tác của văn học dân
gian, ca dao là một thể loại phổ biến nhất, phát triển rực rỡ và có một vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội nó chung và trong nền văn học dân gian nói
riêng. Ca dao mang những giá trị văn hóa, tinh thần vô giá của nhân dân ta, nó
thấm sâu vào mỗi tâm hồn người Việt Nam từ thuở lọt lòng, bằng những lời ru của
bà, của mẹ. Là người bạn tinh thần thân thiết của chúng ta khi cắp sách đến trường
trong suốt cuộc đời. Đó không chỉ là những lời từ trái tim của tình yêu đôi lứa “Trăng tròn chỉ có đêm trăng/ Tình ta
tháng tháng, năm năm vẫn tròn”, của tình nghĩa vợ chồng “Chữ rằng: quân tử tạo đoan/ Vợ chồng là
nghĩa dá vàng trăm năm”, của tình cha nghĩa mẹ sinh thành “Con lên ba, mẹ sa xương sườn/ Cha sinh mẹ
dưỡng” mà đó còn là những lời ca tinh thần đoàn kết đấu tranh và bảo vệ đất
nước, những kinh nghiệm lao động sản xuất... từ ngàn xưa của ông cha ta. Chính
vì vậy mà việc tìm hiểu và nghiên cứu ca dao, ta sẽ thấy cách thể hiện độc đáo
và sâu sắc về đời sống tâm hồn con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Trong tiến trình lịch sử, thể loại ca
dao đã có sự vận động rõ rệt từ bộ phận ca dao truyền thống đến bộ phận ca dao
hiện đại. Đặc biệt ở bộ phận ca dao hiện đại, đây thực sự là một “chân trời mới
lạ” cuốn hút mạnh mẽ với những con người muốn khám phá cái đẹp, cái hay của ca
dao. Đó còn là sự kế thừa và phát huy những phần ưu tú của nghệ thuật ca dao cổ
truyền. Theo các nhà nghiên cứu, bộ phận ca dao hiện đại được tính từ năm 1945
đến nay. Vì đây là một bộ phận mới nên còn ít các công trình nghiên cứu về nó.
Và càng hiếm hoi hơn những công trình nghiên cứu ca dao hiện đại theo hướng tiếp
cận của Thi pháp học- một khoa học văn học có tính thời đại. Nghiên cứu ca dao
hiện đại theo hướng tiếp cận thi pháp, người ta có thể tìm hiểu ở các phương diện
đề tài, cảm hứng sáng tác, nhân vật trữ tình, không gian- thời gian nghệ thuật,
hình thức diễn xướng… Trong đó, không gian nghệ thuật được coi là yếu tố có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện nội dung và ý đồ nghệ thuật của
tác phẩm. Vì thế chúng tôi quyết định chọn “Không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại”
làm đề tài nghiên cứu. Hy vọng với đề tài này sẽ góp phần khám phá được
những chiều sâu tư tưởng lẫn những giá trị nghệ thuật đặc sắc của những lời ca
dao ngọt ngào tha thiết mà nhân dân ta sáng tạo.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về ca dao hiện đại có một số
công trình nghiên cứu. Trong bài viết “Về một phương diện nghệ thuật của ca dao
tình yêu” của tác giả Trần Thị An, bài viết khẳng định thời gian là một yếu tố
trong chỉnh thể nghệ thuật của ca dao. Trong chuyên luận “Thi pháp ca dao”, nhà
nghiên cứu Nguyễn Xuân Kính tìm hiểu về các vấn đề ngôn ngữ, hình tượng, kết cấu,
thể thơ, thi pháp, thời gian và không gian nghệ thuật trong ca dao truyền thống.
Trong giáo trình “Văn học dân gian Việt
Nam”, nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn đã đề cập tới cấu
tứ trong thơ trữ tình dân gian. Song, mảnh ca dao hiện đại từ năm 1945 đến nay
dưới góc nhìn thi pháp, đặc biệt ở góc độ không gian nghệ thuật thì chưa có
công trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài trên góp phần làm rõ hơn về
không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại, từ đó có cái nhìn toàn diện khi về
những nét khác biệt và tương đồng của ca dao hiện đại với ca dao truyền thống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên
cứu vào yếu tố thi pháp, tiêu biểu là không gian nghệ thuật trong những lời ca
dao hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu: Những lời ca dao
được sưu tầm, biên soạn và xuất bản dưới dạng viết.
5. Phương pháp nghiên cứu
-
Phương
pháp phân tích- tổng hợp
-
Phương
pháp thống kê
-
Phương
pháp so sánh- đối chiếu
B.
NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1 Khái niệm thi pháp văn học dân gian
Nhìn một cách khái quát thì lịch sử
thi pháp học là một quá trình phát triển theo chiều hướng tích cực. Cùng với bước
đi của thời gian, bộ môn khoa học này càng ngày càng được chuyên biệt hóa, lúc
đầu nó là một bộ phận nằm trong mỹ học và lý luận văn học, sau tách ra trở
thành bộ môn khoa học độc lập. Đối tượng nghiên cứu của bộ môn khoa học này
cũng dần được mở rộng, đầu tiên là thơ sau đó là cả thơ và văn xuôi; đầu tiên
là văn học viết sau đó là cả văn học viết và văn học dân gian. Việc nghiên cứu
thi pháp văn học dân gian không chỉ mở rộng phạm vi, đối tượng nghiên cứu của
khoa học thi pháp mà còn đem đến cho bộ môn khoa học này những kết quả khả quan
và mở ra những hướng nghiên cứu có hiệu quả. Vậy chúng ta cần tìm hiểu khái niệm
thi pháp văn học dân gian. “Thi pháp văn
học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và
thủ pháp miêu tả biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp
xây dựng hình tượng con người... Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao
gồm từ việc khảo sát những yếu tố thi pháp riêng lẻ như phép so sánh thơ ca,
các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cách cấu tạo cốt truyện, cách mô tả
diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật... đến việc khảo sát những
đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại, và cuối cùng là nêu lên những đặc điểm
phổ thông và những đặc điểm dân tộc của thi pháp học văn học dân gian nói
chung. Nghiên cứu thi pháp văn học dân gian còn bao gồm cả việc khảo sát những
đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo và diễn xướng trong mối quan hệ
với những đặc điểm thi pháp truyền thống”. Quy chiếu vào bài nghiên cứu, xác
định yếu tố thi pháp cần nghiên cứu là không gian nghệ thuật. Đây là một yếu tố
thi pháp không chỉ giữ một vai trò quan trọng trong văn bản trữ tình, mà còn là
một yếu tố có sự biến đổi khá rõ nét từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại
1.2 Khái niệm về ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại
1.2.1 Khái niệm về ca dao cổ truyền
Thuật ngữ ca dao đã từng được dùng với
nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu,
dao là bài hát không có khúc điệu. Và một thời ca dao là danh từ chung chỉ toàn
bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong
trường hợp này, ca dao đồng nghĩa với dân ca. Nhưng trên thực tế, nội hàm khái
niệm ca dao đã dần dần có sự thu hẹp. Hiện nay, các nhà nghiên cứu cơ bản thống
nhất dùng danh từ ca dao để chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ (phần lời
thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi). Với nghĩa
này, ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian truyền thống.
Thí dụ lời ca dao:
Gió mùa thu mẹ
ru con ngủ
Năm canh chày thức
đủ vừa năm
Bài ca dao được xem là rút ra từ bài
dân ca Nam Bộ Ru con với những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đưa hơi như sau:
Gió mùa thu mẹ
ru (mà) con ngủ (u).
Năm (ơ) canh
chày (là) năm (ơ) canh chày, thức đủ vừa năm...
Hay
lời ca dao:
“Ngựa ô anh thắng
kiệu vàng
Anh tra khớp bạc
đưa nàng về dinh”
Đây vốn được xem là lời thơ cốt lõi của
bài dân ca Lý ngựa ô có phần lời đầy đủ (bao gồm cả tiếng đệm, tiếng láy, tiếng
đưa hơi) như sau:
Ngựa ô anh thắng
(anh thắng) kiệu vàng
Anh tra khớp bạc,
lục lạc đồng đen
Bông sen là rậm,
dây cương hồng thắm
Cán roi anh bịt
đồng (hứ hư là)…
Anh (í anh) đưa
nàng
Anh đưa nàng về
dinh (ứ ư…)
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, giới
nghiên cứu nước ta đã sử dụng tập hợp từ ca dao hiện đại (hay ca dao mới) để
phân biệt với ca dao cổ truyền (còn gọi là ca dao cổ).
Như vậy, ca dao cổ truyền (hay ca dao cổ) là khái niệm chỉ riêng thành phần
nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng láy, tiếng
đưa hơi) được sáng tác và sưu tầm chủ yếu từ Cách mạng Tháng Tám trở vể trước.
1.2.2 Khái niệm về ca dao hiện đại
Khác với ca dao cổ truyền, ca dao hiện
đại ra đời và tồn tại trong giai đoạn lịch sử mới. Bởi vậy, hoàn cảnh sáng tác,
lực lượng sáng tác, hệ thống đề tài, chủ đề cùng những phương thức và phương tiện
sáng tác lưu truyền phổ biến có nhiều nét khác biệt. Ca dao cổ truyền chủ yếu
là lời của những sáng tác dân ca, ra đời trong các sinh hoạt ca hát dân ca. Lực lượng tham gia sáng
tác chủ yếu là tầng lớp nông dân. Đề tài và chủ đề cũng khá phong phú. Phương
thức sáng tác tập thể và phương tiện lưu truyền bằng miệng chiếm ưu thế. Trong
khi đó ca dao hiện đại lại ra đời trong những hoàn cảnh hết sức đặc biệt: trong
những cuộc hành quân của bộ đội, trong các đợt dân công đi tiếp vận, trong các
sinh hoạt câu lạc bộ, trong những cuộc thi sáng tác ca dao... Điều đáng lưu ý
là, ca dao hiện đại không chỉ gồm phần lời của các làn điệu dân ca, mà còn là
những lời thơ cất lên trong các sinh hoạt văn hóa văn nghệ đa dạng của quần
chúng. Ca dao hiện đại không chỉ được sáng tác và phổ biến bằng hình thức truyền
miệng mà còn được lưu truyền bằng văn tự. Phạm vi đề tài trong ca dao hiện đại
cũng được mở rộng. Bên cạnh các đề tài truyền thống, những đề tài mới mang hơi
thở thời đại được bổ sung và chiếm vị trí chủ chốt. Hệ thống chủ đề trong ca
dao hiện đại vì thế trở nên hết sức đa dạng, phong phú. Ra đời trong hoàn cảnh
lịch sử mới, lực lượng sáng tác và lưu truyền ca dao hiện đại cũng có những
thay đổi cơ bản. Không chỉ có nông dân mà công nhân, bộ đội, dân công, trí thức…
đều tham gia vào hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian này.
Điểm khác biệt trên giữa ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại chứng tỏ thể loại ca dao đã có sự vận động, biến đổi
mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử. Điều đó kéo theo việc phải có những điều chỉnh
nhất định trong khái niệm ca dao hiện đại. Tác giả công trình Sự chuyển đổi thi
pháp từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại đã định nghĩa: Ca dao hiện đại là khái niệm chỉ thành phần
nghệ thuật ngôn từ của các loại dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng
đưa hơi) và những lời thơ mang truyền thống nghệ thuật dân gian, ra đời và tồn tại trong thời
kỳ hiện đại.
1.3 Khái niệm về
không gian và đặc điểm của không gian nghệ thuật trong ca dao
1.3.1 Khái niệm về không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là một yếu tố
thi pháp được một số nhà nghiên cứu quan tâm. Song đến nay, khái niệm không
gian nghệ thuật vẫn chưa thật sự thống nhất. Từ
điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa như sau: “Không gian nghệ thuật là
hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự
miêu tả trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn
ra trong trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc
lộ toàn bộ quảng tính của nó: cái này bên cạnh cái kia, liên tục, cách quãng, nối
tiếp, cao, thấp, xa, gần, rộng, dài.. tạo thành viễn cảnh nghệ thuật”.
Giáo trình Dẫn luận thi pháp học nhà
nghiên cứu Trần Đình Sử cho rằng: “Không gian nghệ thuật là mô hình không gian
của thế giới nghệ thuật và cũng là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”.
Trong thực tế “không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, và bản
thân người kể chuyện hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự vật trong một khoảng
cách, góc nhìn nhất định. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không gian có chiều
cao- thấp, rộng- hẹp, xa- gần, sâu- cạn … Có thể nói, không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo
của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một phương diện nhất định
của cuộc sống”.
Phạm Thu Yến trong Những thế giới nghệ
thuật ca dao đã đưa ra ý kiến: “Không gian nghệ thuật là một trong những phạm
trù quan trọng của thi pháp. Vừa là đại lượng chỉ địa điểm, vừa gắn với trường
nhìn điểm nhìn, môi trường hoạt động, không gian nghệ thuật trở thành phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, nhiều khi mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Là một hiện
tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ, mang ý nghĩa cảm xúc
tâm tưởng”. Như vậy, có thể thấy không gian nghệ thuật là một dạng tồn tại đặc
biệt, có quan hệ mật thiết với không gian vật lí và không gian địa lí. Nhưng giữa
hai kiểu không gian này lại có những điểm khác biệt. Nếu như không gian địa lý,
không gian vật lý tồn tại một cách khách quan ngoài ý thức của con người thì
không gian nghệ thuật lại mang đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể sáng tạo. Đó là
không gian tinh thần của con người, là không gian sống mà con người cảm thấy.
Hay nói cách khác không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nó gợi
lên trong trí tưởng tượng của chúng ta qua các tín hiệu ngôn từ và mang tính vận
động rõ nét. Không gian nghệ thuật không
chỉ mang tính chủ quan mà còn mang tính tượng trưng, quan niệm. Nghĩa là chủ thể
sáng tạo luôn tạo ra không gian nghệ thuật để thể hiện một quan niệm nhất định
của mình về thế giới và cuộc sống con người. Không những vậy không gian nghệ
thuật còn mang một cấu trúc đặc biệt, nó gắn liền với điểm nhìn của con người
trong tác phẩm văn học.
1.3.2 Đặc điểm của không gian nghệ thuật trong ca dao nói
chung
Muốn phát hiện ra những đặc điểm riêng
biệt của không gian nghệ thuật trong văn học dân gian nói chung và ca dao hiện
đại nói riêng người nghiên cứu phải so sánh không gian mang tính chủ quan mà
tác giả dân gian tạo nên với không gian hiện thực khách quan ở ngoài đời để tìm
ra những nét tương đồng và dị biệt. Nghiên cứu không gian nghệ thuật trong ca
dao hiện đại, chúng ta cũng đi theo định hướng khoa học nói trên.
Nghiên cứu không gian nghệ thuật trong
ca dao chúng ta cần lưu ý tới đặc trưng loại hình, đặc trưng thể loại của nó. Nếu
như không gian nghệ thuật trong các tác phẩm tự sự thường được miêu tả rất cụ
thể, tỉ mỉ và chi tiết, thì không gian nghệ
thuật trong các tác phẩm trữ tình trong đó có ca dao, chỉ được miêu tả một
cách chấm phá, điểm xuyết hoặc là họ không miêu tả mà mặc nhiên công nhận không
gian nghệ thuật ấy. Riêng với ca dao, không gian nghệ thuật mang đặc trưng thể loại
rất rõ nét.
Qua nghiên cứu ta thấy không gian nghệ
thuật trong ca dao mang tính phiếm chỉ. Tuy nhiên tính phiếm chỉ ấy có khi thể
hiện trên văn bản là rất cụ thể (không gian bến đò, dòng sông, cánh đồng…)
nhưng chúng ta không thể xác định được nó ở địa điểm nào. Không gian phiếm chỉ
này rất phù hợp với đặc trưng của thể loại ca dao. Khi tìm hiểu không gian nghệ
thuật trong ca dao hiện đại, người nghiên cứu cũng cần bám sát vào những đặc điểm
khoa học trên.
1.4 Đôi nét về ca dao hiện đại qua các thời kì lịch
sử
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
nay (đặc biệt vào năm 1969), vấn đề văn học dân gian hiện đại đã được đặt ra.
Nhiều cuộc thảo luận được tổ chức và đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu
ở Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng, từ sau Cách mạng tháng Tám, văn học dân
gian dần dần mất đi và chỉ còn văn học thành văn phát triển rộng rãi trong quần
chúng nhân dân lao động. Một số khác không phủ nhận hoàn toàn sự tồn tại của
văn học dân gian hiện đại mà lại cho rằng, trong điều kiện lịch sử mới không thể
có một loại hình văn học dân gian riêng biệt mà nó phát triển lẫn cùng với văn
học thành văn. Tuy nhiên, phần đông các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định sự tồn tại
tự nhiên của văn học dân gian hiện đại với tư cách là một loại hình văn học nghệ
thuật riêng biệt. Chẳng hạn ý kiến của các tác giả Vũ Ngọc Phan, Chu Xuân Diên,
Cao Huy Đỉnh, Đặng Văn Lung, Trần Gia Linh, Dương Tất Từ, Trần Tiến… đều khẳng
định sự tồn tại của văn học dân gian hiện đại trong đời sống xã hội hiện đại.
Trong những sáng tác dân gian hiện đại,
ca dao là một thể loại khá tiêu biểu và có một vị trí quan trọng trong đời sống
xã hội. Cùng với sự thay đổi của đời sống xã hội, ca dao hiện đại cũng có sự vận
động khá rõ nét qua các giai đoạn lịch sử. Việc phân chia thành các giai đoạn
phát triển của ca dao hiện đại chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì trong thực
tế có những lời ca dao không thể xác định rõ thuộc giai đoạn lịch sử nào. Hiện
nay, có thể chia ca dao hiện đại thành ba giai đoạn: Từ năm 1945 đến năm 1954,
từ năm 1954 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến nay. Vậy trong từng giai đoạn lịch
sử ca dao hiện đại tồn tại và phát triển như thế nào?
·
Từ năm 1945 đến
năm 1954
Thời kỳ này xuất hiện rất nhiều những lời
ca dao trong quần chúng nhân dân mà chủ yếu là ở những làng quê, thôn bản, sau
đó là ở các nhà máy, xí nghiệp và công trường. Ngoài ra văn học dân gian trong
đó có ca dao hiện đại còn xuất hiện ở môi trường lao động và chiến đấu chẳng hạn
trong các cuộc tải lương, tải đạn ra chiến trường.
So với ca dao những giai đoạn trước,
ca dao thời kỳ này có nhiều điểm đổi mới về nội dung phản ánh cũng như phương
thức sáng tác, và lưu truyền. Trong điều kiện lao động, chiến đấu và sinh hoạt
mới của nhân dân thì phương thức sáng tác, lưu truyền mới của ca dao xuất hiện
là một điều tất yếu. Lực lượng sáng tác ca dao đông đảo và phong phú hơn bao giờ
hết. Đó là người nông dân, công nhân, trí thức, là anh vệ quốc quân, chị thanh
niên xung phong, các em thiếu nhi, các cụ phụ
lão… Công việc chính của họ là học tập, sản xuất, và chiến đấu, nhưng với
phẩm chất nghệ sĩ đã thấm đượm trong tâm hồn, mà cảm hứng thi ca đến với họ ngay
trong lúc thực hiện chính những công việc ấy. Họ cất lên những lời ca, câu hát
đọc lên những vần thơ để giãi bày tâm trạng,
cảm xúc, bộc lộ ý chí quyết tâm chiến đấu và thể hiện tấm lòng yêu nước của
mình. Những sáng tác hay được chép truyền tay nhau viết trong cuốn sổ tay, chép
lên báo tường, viết trên chuối non, trong lòng máng trăng của tranh tre… rồi
dán lên báng súng, tông dao, lưỡi mác, bi đông thậm chí ca dao còn được dán lên
cả nồi niêu, xoong chảo, gửi theo nắm cơn ra trận địa … Cứ như vậy, ca dao theo
chân anh bộ đội, chị dân công, mà lưu truyền ngày càng sâu rộng hơn trong lòng
quần chúng. Do tính chất đa dạng của sinh hoạt lao động, chiến đấu và vui chơi
của nhân dân mà phong trào ấy có những biểu hiện vô cùng phong phú: Mùa hè năm
1949, nhà thơ Tố Hữu đi với tiểu đoàn Phủ Thông tham gia chiến dịch Sông Thao.
Trong mười năm ngày cùng bộ đôị hành
quân, chiến đấu nhà thơ đã thu lượm được 350 bài ca dao trong đó có nhiều bài
có chất lượng cao. Nhà thơ kể lại rằng, thường trung đội nào cũng có báo, “…báo
ra không khó khăn gì hết. Ra trong lúc hành quân, trong lúc đánh trận. Cứ như vậy
mà anh nào cũng cố viết, vừa lau súng, vừa lẩm nhẩm mấy câu ca dao. Chợt nghĩ ra
họ viết và dán ngay lên súng, lên nồi chảo, ống loa, mìn, bom…Đến một trình độ một
hôm xuất phát có thể động viên một lúc 500 bài”.
Lưu Quý Kỳ đã kể lại một câu chuyện trong
thực tiễn văn nghệ kháng chiến Nam Bộ như sau: “Ở Nam Bộ vào thời có chủ trương
đẩy mạnh việc xây dựng bộ đội địa phương, các đơn vị quân đội chính quy đem
súng ống- chiến lợi phẩm của mình tặng cho du kích và trao nhiệm vụ cho họ thành
lập bộ đội địa phương. Lúc đó cán bộ văn nghệ trong quân đội đã vận động mỗi
chiến sỹ làm một câu ca dao dán vào báng súng để nói lên tâm tình của mình trước
khi gửi khẩu súng lại cho người tiếp nhận. Chỉ một vài tiếng đồng hồ, một tiểu
đoàn vào khoảng 400 chiến sĩ đã có trên 500 câu ca dao được ra đời”.
Còn Hoài Thanh, trong “Nói chuyện thơ
kháng chiến ở chiến dịch Cao- Bắc- Lạng” (1950) thì kể lại, một đồng chí cấp dưỡng
gài vào nắm cơm gánh ra trận địa cho bộ đội mấy câu thơ:
Mời anh xơi nắm
cơm chay
Ăn no lấy sức
phanh thây quân thù.
Bộ đội chiến đấu ngoài mặt trận đáp lại
cũng bằng cách dán trả mấy câu thơ vào chiếc đòn gánh gánh cơm:
Hôm nay tớ nhận
cơm chay
Ngày mai tớ gửi
mười Tây làm quà.
Khoảng cuối những năm 50 trong những
đoàn dân công đi tiếp vận chuyển thóc gạo ra chiến trường bắt đầu xuất hiện những
câu hò tiếp vận đầu tiên ở Thanh Hóa, Nghệ An. Những điệu hò này được kế thừa
trên cơ sở tiếp thu những điệu hò trong lao động và hò đối đáp trước Cách mạng.
Chẳng hạn:
Hò ớ ơ …
Trời chưa khô lại
mòng những nước
Dân công hò vội
bước theo quân
Đỉnh đèo vừa dốc
vừa trơn
Chim bay rã
cánh, người còn dẻo chân.
Hò ớ ơ …
Tiếng đàn của chị
văn công
Tình tinh tính tỉnh
tinh thần anh em
Một đoàn súng ống
vừa lên
Một đoàn gồng
gánh theo liền sau lưng.
Bên cạnh đó, trong ca dao chống Pháp
còn xuất hiện hình thức diễn xướng dân gian bằng lối đối đáp nam- nữ rất hồn
nhiên, đáng yêu. Thí dụ:
Nam: Đường đi vượt
núi băng rừng,
Thấy em vác đạn
anh thương em nhiều.
Nữ: Anh ơi dù mấy
núi đèo
Súng đi nên đạn
phải theo đi cùng.
Đôi ta súng thép, đạn đồng
Súng thầm hẹn đạn
tiến công đến cùng.
Hay nhà thơ Trần Hữu Thung kể lại rằng,
trong một đêm trăng xuôi dòng sông Lam để đi công tác vào Bình Trị Thiên nhà
thơ đã được nghe câu hò trên chiếc thuyền vận tải:
Thuyền ai xuôi chợ
Vực
Thuyền ai ngược
sông Đô Lương
Thuyền ai chở
khách chở phường
Thuyền em chỉ chở
công lương cho cụ Hồ.
Từ thực tế sáng tác và sưu tầm ở trên,
ta thấy rằng: Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp ca dao hiện đại vẫn
tồn tại và phát triển một cách mạnh mẽ trong quần chúng nhân dân. Sự tồn tại và
phát triển của nó trước hết xuất phát từ nhu cầu và khả năng sáng tạo, thưởng
thức văn nghệ của đại bộ phận quần chúng nhân dân. Tất nhiên do đòi hỏi cấp thiết
của cuộc sống lao động và chiến đấu, thời gian dành cho việc gọt rũa, trau chuốt
không nhiều nên nhiều tác phẩm ca dao hiện đại còn ở dạng phác thảo, chưa hoàn
thiện về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, cá biệt có những lời ca dao
thuần tuý mang tính tuyên truyền, hô khẩu hiệu, ít chất thơ. Sau đó phải kể đến
vai trò định hướng của Đảng và nhà nước đối với văn hóa văn nghệ dân gian nói
chung và ca dao hiện đại những năm chống Pháp nói riêng.
·
Từ năm 1954 đến
năm 1975
Thời kỳ dân tộc ta phát động cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược ở Miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Miền Bắc. Trong giai đoạn này, phong trào sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian ngày càng được đẩy mạnh và phát triển
rầm rộ hơn bao giờ hết. Đặc biệt nhân dân và quân đội ta đã sáng tác nhiều ca
dao để kịp thời góp phần đẩy mạnh tinh thần chiến đấu và ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, ca ngợi cuộc sống lao động, sản xuất.
Phong trào sáng tác ca dao chống Mỹ đã
phát triển mạnh mẽ với những hình thức đa dạng, phong phú. Những tập Ca dao chống
Mỹ, Ca dao chiến sỹ liên tục được ra đời trong những phong trào sáng tác, sưu tầm
ở tiền tuyến. Còn ở hậu phương, các tập ca dao với chủ đề sản xuất và xây dựng
cuộc sống mới cũng lần lượt được xuất bản như: Thay người đi xa, Hàng về (ca
dao về nông nghiệp), Ngàn xanh (ca dao về lâm nghiệp), Khơi dòng nước lên (ca
dao về thuỷ lợi)… Các nhà xuất bản thời đó, đặc biệt là Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân đã góp phần không nhỏ trong việc sưu tầm tuyển chọn ca dao, nhất là những
bài ca dao đặc sắc, mang đậm giá trị tư tưởng cũng như đáp ứng yêu cầu hình thức
nghệ thuật. Nhà xuất bản này còn mở thêm chuyên mục phản ánh tình hình sáng
tác, sưu tầm và hướng dẫn cách thức sáng tác, sưu tầm ca dao cho quần chúng nhất
là các chiến sỹ ngoài mặt trận. Ban biên tập còn phân tích nội dung và hình thức
nghệ thuật một số lời ca dao tiêu biểu có nội dung chống Mỹ với nhan đề: “Cần
thêm rất nhiều thơ ca căm thù như thế”. Ở thời kỳ này, những sinh hoạt văn hóa
văn nghệ dân gian mang tính tập thể như hò tiếp vận, hò đối đáp vẫn tiếp tục được
duy trì, phát triển và trở thành phong trào ca hát quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ
trong các đơn vị bộ đội, nông thôn, nhà máy, công trường, cơ quan, trường học…
Hơn thế phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” cũng góp phần tích cực vào việc khởi
dậy niềm say mê sáng tạo thơ ca của quần chúng. Có thể nói, các hình thức ca hát trên là mảnh đất
màu mỡ để ca dao nảy mầm và phát triển.
Sau đây là một vài minh chứng cho
phong trào sáng tạo và thưởng thức ca dao chống Mỹ. Tác giả Đặng Văn Lung trong
bài viết Những người sáng tác ca dao ở nông thôn hiện nay đã miêu tả một đêm
lao động và sáng tác ca dao như sau: “Ở đây không thể có sự thống kê chính xác
nào về số lượng ca dao hôm ấy. Câu này tiếp câu kia như tranh lợp nhà, khi giống
nhau ở phần đầu, khi giống nhau ở phần giữa hay phần cuối, thậm chí giống nhau
hai phần hay cũng bài ấy đổi đi mấy chữ. Người ta không nghĩ đến chất lượng câu
ca dao vừa làm, cũng chẳng nghĩ tới việc ghi lại, sửa chữa để gửi đến một bài
báo nào, chỉ miễn sao động viên được mọi người vui vẻ, hăng hái hoàn thành công
việc của mình. Người ta cũng không thể nhớ được câu ca dao ấy do ai làm ra”. Đó
chỉ là một trong những hình thức sáng tác ca dao của giai đoạn kháng chiến chống
Mỹ. Còn biết bao nhiêu lời ca dao khác đã được ra đời trong cuộc sống sinh hoạt,
chiến đấu, lao động như thế mà chúng ta
chưa sưu tầm được.
·
Từ năm 1975 đến nay
Từ khi đất nước thống nhất đến nay,
sáng tác dân gian ngày càng phải đối mặt với một thực tế: tự vận động để tồn tại
bên cạnh những loại hình văn học nghệ thuật chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp
vốn có nhiều ưu thế về nội dung và hình thức biểu hiện. Song văn học dân gian
hiện đại trong đó có ca dao, vẫn tiếp tục tồn tại và vẫn được lưu truyền trong
đời sống sinh hoạt của quần chúng. Bên cạnh những lời ca dao mang âm hưởng ngợi
ca: Ca ngợi Đảng, Bác Hồ, ca ngợi cuộc sống mới, ca ngợi những con người dũng cảm
trong cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược… còn có không ít những lời ca dao đang
được lưu truyền trong sinh hoạt của quần chúng nhưng vì những lý do khách quan
và chủ quan mà ta chưa sưu tầm, tuyển chọn được. Bộ phận ca dao này, ngoài một
số lời mang âm hưởng ngợi ca, còn có những lời chứa đựng nội dung hài hước,
châm biếm, phê bình giáo dục mang tính thời sự sâu sắc. Có thể đó là những lời
ca dao châm biếm nhẹ nhàng hoặc phê phán những thói hư tật xấu của con người
trong xã hội ngày nay:
- Một cây làm chẳng
lên non
Ba cô chụm lại mỏi
mòn lỗ tai.
- Ầu ơ…
Gió mùa thu mẹ
ru con ngủ
Năm canh dài cha
nhậu đủ cả năm canh.
- Con cò đi uống rượu đêm
Đậu phải cành mềm
lộn cổ xuống ao
Còn anh chả uống
ngụm nào
Cũng say ngây ngất,
ngã vào lòng em.
Đặc biệt có những lời ca dao lên án những
tệ nạn xã hội một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc:
- Cờ bạc là bác
thằng hèn
Áo quần bán hết
tòng teng đi… ăn mày.
- Sáng trăng chiếu
chải hai hàng
Bên anh “xập
xám” bên làng “tiến lên”.
- Người ta đi cấy
lấy công
Tôi nay đi cấy
còn trông nhiều bề
Trông qua trông
lại trông về
Trông khi chủ vắng
đánh đề kiếm thêm.
Cũng xuất hiện không ít trong ca dao
hiện đại những lời ca dao có nội dung lên án lối sống thực dụng, trọng đồng tiền
của một số người hiện nay:
- Đi đâu cho thiếp theo cùng
No thì thiếp ở,
lạnh lùng thiếp…bye!
- Má ơi đừng gả
con xa
Chim kêu, vượn
hú biết nhà má đâu
Thôi má hãy gả
nhà giàu
Có tiền chỉnh mặt,
làm đầu cho con.
Cùng với nội dung mang tính hài hước,
châm biếm một số lời ca dao còn được sáng tạo trên cơ sở kế thừa những yếu tố
truyền thống, có tính dị bản và đang được lưu truyền trong đời sống xã hội:
- Còn duyên bán
nhẫn bán vàng
Hết duyên vẫn
bán nhẫn vàng như xưa.
Dị bản: Còn
duyên bán nhẫn bán vàng
Hết duyên bán
mít cho chồng gặm xơ.
- Trên đồng cạn
dưới đồng sâu
Chồng cày vợ ở
nhà lầu ngồi chơi.
Dị bản: Trên đồng
cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy
con trâu đi nằm.
Trong thời kỳ này còn xuất hiện một số người hay làm thơ theo kiểu dân gian, tiêu biểu
là Nguyễn Bảo Sinh. Ông được biết đến với tư cách là nhà thơ “hậu bút tre” cùng
với những vần thơ mang đậm “chất dân gian”. Ở mọi nơi, mọi chỗ ông đều có thơ
dưới nhiều hình thức. Viết trên giấy, trên khung treo tường, khắc trên đá…
ngoài ra ông còn in thành nhiều tập thơ lấy tên là Huyền Thi. Thơ của ông đa dạng
phong phú, khéo léo và bất ngờ. Với nhiều lối nói như ngắt câu, ép vần, nói
lái, nói ngược, có khi rất ngộ nghĩnh,có khi ngang phè ẩn nghĩa, cho nên dễ ấn
tượng, dễ nhớ, hiệu quả gây cười cao. “Ông làm thơ như một cách ghi nhật ký,
ghi lại ý nghĩ bất chợt khi ông nghĩ ra một điều gì đấy trên cơ sở quan sát hiện
thực và mỗi khi ông rút ra được kinh nghiệm gì đấy từ cuộc đời ông”. Chẳng hạn
như một vài vần thơ dưới đây:
Ghế thì ít, đít
thì nhiều
Cho nên đấu đá
là điều tất nhiên
Ba lạng ở chốn động
Tiên
Thừa chỗ đủ để
cưỡi lên vạn người.
Xung quanh chuyện ái tình ông thường
viết rất tế nhị khiến người “có tật” cũng không giật mình, không tự ái:
- Đàn bà lưu luyến
tình xưa
Đàn ông say đắm
tình vừa mới quen.
- Im lặng vợ bảo
giận gì
Tươi cười vợ bảo
chắc đi với bồ.
- Ái tình nếu uống
đủ liều
Loài người sẽ
thoát được điều tà tâm.
Nhiều lúc nhà thơ lắng lại những suy
tư gợi mở về lẽ sống, tình đời và muốn được cảm thông, chia sẻ:
- Quạnh hiu ngay
giữa đất trời
Còn hơn hiu quạnh
giữa người thân thương.
- Người mạnh nào
cũng cô đơn
Bởi vì kẻ yếu
đông hơn rất nhiều.
Nguyễn Bảo Sinh là một nhà thơ không
chuyên, hóm hỉnh có tài. Thơ ông sẽ trở thành thơ dân gian nếu như những sáng
tác đó không những được công chúng đón nhận mà còn lưu truyền gìn giữ theo quy
luật của sáng tạo văn học nghệ thuật dân gian. Những phân tích bước đầu trên
đây một lần nữa khẳng định ca dao hiện đại luôn luôn vận động và phát triển
trong thời kỳ hiện đại. Ở mỗi một giai
đoạn lịch sử ấy ca dao hiện đại đã có một diện mạo riêng, và đời sống riêng.
1.5 Những yếu tố tạo tiền đề để
ca dao hiện đại tồn tại và phát triển
Hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn khẳng
định sự tồn tại tự nhiên của văn học dân gian hiện đại trong đó có ca dao hiện
đại. Vậy ca dao hiện đại tồn tại và phát triển được là nhờ những yếu tố tiền đề
nào?
Trước hết ca dao hiện đại tồn tại,
phát triển được là do nhu cầu và khả năng sáng tạo, thưởng thức văn nghệ của quần
chúng nhân dân trong thời kỳ lịch sử mới của đất nước. Nói như nhà thơ Xuân Diệu,
đó là sự tồn tại khách quan, không thể cưỡng lại được của hình thức sáng tạo
nghệthuật theo phương thức tập thể và truyền miệng ngay cả trong những điều kiện
lịch sử mới của nhân dân. Hình thức sáng tạo này tuy không còn là hình thức duy
nhất xưa kia, song vẫn tiếp tục tồn tại để đáp ứng một loại nhu cầu sáng tạo
tinh thần mà những hình thức sáng tạo theo phương thức văn học thành văn không
thể thỏa mãn được.
Ngược dòng thời gian chúng ta thấy có
một dòng chảy thơ ca dân gian trong suốt quá trình lịch sử. Dân tộc ta là một
dân tộc vốn yêu thích ca hát, làm thơ, thích được giãi bày những cảm xúc, tình
cảm của mình đối với thế giới xung quanh. Từ Cách mạng tháng tám năm 1945 đến
năm 1975, đất nước ta có hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Đó là hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ trường kỳ gian khổ. Chính hoàn cảnh lao động chiến đấu mới
này đã nảy sinh những tình cảm, quan điểm, thái độ, những nhu cầu giao tiếp và
sáng tạo mới của con người. Chính vì thế mà trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ những lời hát đối đáp, những lời ngâm, điệu hò, những lời ca dao
vẫn tiếp tục ra đời nhưng mang hơi thở mới- hơi thở của thời đại. Có thể nói
nhu cầu sáng tạo và thưởng thức văn nghệ của quần chúng nhân dân chính là yếu tố
tiền đề đầu tiên và quan trọng nhất để ca dao hiện đại tồn tại và phát triển.
Yếu tố tiền đề thứ hai tác động tới đời
sống sinh mệnh của ca dao hiện đại là sự định hướng của Đảng. Chủ trương văn
nghệ phục vụ cuộc sống lao động và chiến đấu, văn nghệ trở về với cội nguồn dân
tộc của Đảng là nhân tố quan trọng thúc đẩy phong trào văn hóa văn nghệ của quần
chúng, góp phần bảo lưu và phát triển các hình thức sáng tạo văn nghệ dân gian
cổ truyền trong đó có thơ ca. Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên đã có nhận xét
“Dòng văn học quần chúng hiện nay không phải là dòng văn học tự phát như xưa mà
có hướng tiến lên theo đường lối văn nghệ của Đảng”.Từ nhận xét trên có thể khẳng
định rằng, cũng giống như trong Văn học Viết, các văn nghệ sỹ đã nhận được sự định
hướng của Bác Hồ: “Văn nghệ cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sỹ trên mặt
trận ấy” (Bài phát biểu của Bác tại Đại hội các nhà văn năm 1951) thì trong văn
học dân gian hiện đại (trong đó có thể loại ca dao) các tác giả dân gian cũng
nhận được sự định hướng kịp thời của Đảng trong việc sáng tác, sưu tầm và tuyển
chọn những lời ca dao hay “những hạt vàng, hạt ngọc trong bể cát mênh mông của
văn học dân gian” để phục vụ cho hai cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc. Tất nhiên mục đích lớn nhất của văn nghệ là
vì Tổ quốc, vì Chủ nghĩa xã hội. Chẳng hạn Đảng đã định hướng cho các nhà xuất
bản (đặc biệt là nhà xuất bản Quân đội nhân dân) mở các chuyên mục góp ý kiến
cho việc sưu tầm và định hướng sáng tác cho các nghệ sỹ dân gian. Nhà xuất bản
đã nhấn mạnh yêu cầu sáng tác ca dao hiện đại: “Các đồng chí nên thuộc nhiều ca
dao truyền thống, học lấy cách suy nghĩ bằng hình tượng của nhân dân lao động,
học lấy lời ăn tiếng nói của nhân dân, học cả lối biểu hiện nữa... ”.
Yếu tố thứ ba có ý nghĩa tiền đề đối với
sự tồn tại và phát triển của ca dao hiện đại chính là đặc trưng thể loại ca
dao. Thể loại ca dao có ưu thế hơn nhiều so với các thể loại khác của văn học dân gian. Đó là sự ngắn
gọn, dễ thuộc, dễ nhớ, vần điệu hài hòa- cân đối, tạo được sự hấp dẫn và thích
thú đối với mọi người. Mặt khác ca dao phản ánh rất sâu sắc và sinh động đời sống
tâm hồn của con người. Vì thế người ta thường mượn ca dao để giãi bày những suy
nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình. Từ những đặc trưng thể loại trên mà ca dao hiện
đại dễ được lưu truyền trong mọi không gian và thời gian. Với những yếu tố tiền
đề nói trên, ca dao hiện đại có cơ sở để tồn tại và phát triển. Bắt nguồn từ truyền
thống thơ ca dân gian, truyền thông văn hóa văn nghệ của dân tộc, ca dao hiện đại
đã khẳng định được sự tồn tại của mình trong xã hội ngày nay.
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG CA
DAO NGHỆ THUẬT
2.1 Tính
phiếm chỉ và tính cá biệt của không gian nghệ thuật
2.1.1
Tính phiếm chỉ
Không gian mang tính phiếm chỉ là những
không gian mang những đặc điểm chung nhất, phổ biến nhất trong ca dao hiện đại.
Đấy cũng là điểm tương đồng giữa không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại với
không gian nghệ thuật trong ca dao cổ truyền. Phần lớn các lời ca dao hiện đại đều
nhắc đến không gian dòng sông, cánh đồng, con đường, chiến trường, mặt trận… Đó
là nơi để nhân vật sinh sống, gặp gỡ, lao động, trò chuyện, ca hát. Những không
gian này không cụ thể, khó xác định, và mang những đặc điểm chung nhất, phổ biến
nhất của dải đất Việt Nam. Dưới đây là một
số không gian nghệ thuật mang tính phiếm chỉ tiêu biểu trong ca dao hiện đại.
2.1.1.1
Không gian dòng sông
Không gian dòng sông trong ca dao hiện
đại thường gắn với hình ảnh con đò chở đoàn chiến sĩ qua sông trong những năm
kháng chiến.
“Tay chèo nhẹ
khoả sóng trăng
Đưa đoàn chiến
sĩ qua sông đêm này
Chúc anh mạnh
khoẻ hăng say
Giết xong giặc Mỹ
mau ngày về qua
Đò em đợi bến
sông nhà
Nước sông lại vỗ
thiết tha mái chèo”.
Mới đọc lời ca dao, ta tưởng đó là địa
điểm đã được xác định cụ thể, nhưng thực tế ta không thể xác định được đây là
dòng sông nào? ở đâu? Cũng là không gian dòng sông với những hình ảnh con thuyền
tải đạn trong một đêm trăng thơ mộng:
“Đêm nay trong
ánh trăng vàng
Thuyền em tải đạn
nhẹ nhàng vượt sông”.
Ta đâu có thể biết được dòng sông này ở
đâu? Chỉ biết rằng đây là không gian xuất hiện rất phổ biến trong những năm
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trên đất nước ta. Không gian mang tính phiếm
chỉ này đã khái quát được nét chung nhất về những dòng sông- nơi diễn ra các hoạt
động phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Đặc biệt không
gian dòng sông ấy đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc về một vẻ đẹp
thiên nhiên thơ mộng cùng tình cảm gắn bó tha thiết giữa con người với con người
trong những năm tháng chiến tranh.
2.1.1.2 Không gian cánh đồng
Không gian cánh đồng cũng xuất hiện rất
phổ biến trong ca dao hiện đại. Đây là không gian cánh đồng non xanh mơn mởn nhờ
mồ hôi, công sức của bao người chăm bón:
“Cánh đồng bát
ngát xanh tươi
Lúa như con gái
đang thời non tơ
Nào ai đắp đập
be bờ
Sao cho ruộng nước
bao giờ cũng no
Thì thùm tát nước
thi đua
Ấy ta thực hiện
vụ mùa sinh sôi”.
và:
“Yêu sao những
cánh đồng này
Dòng mương uốn
lượn hàng cây đôi bờ
Bèo dâu xanh bến
đồng xa
Mưa xuân dải bụi
phất cờ lúa lên
Xanh đồng dưới,
mượt đồng trên
Bàn tay ai đó dịu
hiền đảm đang
Đẹp như cây lúa
đồng làng
Vẫy chào súng
thép, đồng vang tiếng cười
Lúa xanh xanh cả
đất trời
Bước hành quân rộn
niềm vui xóm làng”
Khi đọc lời ca dao ta chỉ cảm nhận được
đây là không gian quen thuộc, dường như đã gặp ở đâu đó và dường như ta đã từng
gắn bó với nó. Nhưng không ai có thể khẳng định đó là cánh đồng của quê hương
mình hay là một cánh đồng nào đó? Ở đâu? Không gian phiếm chỉ này đã khái quát
được những nét chung nhất của cánh đồng lúa Việt Nam và giúp người đọc thấy được
tình cảm chan chứa, yêu thương, gắn bó của con người trên mảnh đất này. Bên cạnh
những cánh đồng xanh mượt đầy sức sống, thì còn có những cánh đồng chịu sự tàn
phá khắc nghiệt của thiên nhiên:
“Hạn hán như lửa
cháy nhà
Lúa rơi giữa ruộng,
lửa sa đầy đồng
Nhìn thân cây
lúa ngậm đồng
Lúa ơi, lúa hỡi
đau lòng lắm thay”.
Lời ca dao trên đã tạo nên ấn tượng đặc
biệt trong lòng người đọc về một cánh đồng héo úa, xác xơ bởi sự tàn phá khắc
nghiệt của thiên nhiên. Đó là cái héo
úa, xác xơ của cánh đồng lúa quê mình hay một nơi nào đó mình đã từng gặp khiến
họ có chung tâm trạng đau đớn, xót xa với nhân vật trữ tình trong lời
ca.
Tóm lại, một trong những đặc điểm cơ bản
của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại là tính phiếm chỉ. Không gian
nghệ thuật này hoàn toàn phù hợp và góp phần đắc lực vào việc thể hiện tâm trạng,
cảm nghĩ chung của nhiều lớp người trong xã hội. Chính vì vậy, cũng giống như
ca dao cổ truyền ca dao hiện đại cũng thường không mổ xẻ, khám phá những tâm trạng
riêng, thường không nói bằng cách nói cá biệt. Người sáng tác ca dao nói như tập
thể nói. Thế nên khi đọc ca dao nói chung và ca dao hiện đại nói riêng người ta
dễ tìm thấy sự đồng cảm, gần gũi, tưởng như những lời ca ấy là tiếng lòng, là cảm
xúc được ngân rung lên từ chính tâm hồn mình vậy.
2.1.2 Tính cá biệt hóa
Không gian mang tính cá biệt hóa là
không gian mang tính riêng biệt, cụ thể và có thể xác định được. Khi tìm hiểu
ca dao hiện đại, có thể nhân thấy không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại
có tính cá biệt hoá cao ở những lời ca dao miêu tả, tường thuật lại những chiến
công lịch sử lẫy lừng của quân và dân ta trong những năm kháng chiến. Ở đó tên
địa phương đã trở thành những yếu tố độc lập để ghi nhớ những chiến công lịch sử đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Trong ca
dao cổ truyền cũng thỉnh thoảng xuất hiện một số tên địa danh như Xứ Nghệ, Xứ Lạng,
Xứ Huế... nhưng những địa danh này không nhiều và không có tính cá thể hoá
trong sự miêu tả. Vì thế ở nhiều câu ca dao có thể thay địa danh này bằng địa
danh khác mà nội dung vẫn phù hợp. Ví dụ:
“Non
Hồng ai đắp mà cao
Sông
Lam ai bới, ai đào mà sâu”.
và:
“Núi Truồi ai đắp mà cao
Sông
Dinh ai bới, ai đào mà sâu”.
“Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non
xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”.
và:
“Đường
vô xứ Huế quanh quanh
Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ”.
“Ai
vô xứ Huế thì vô”
Hay trong bài viết Những yếu tố trùng
lặp trong ca dao trữ tình tác giả Đặng Văn Lung cũng cho rằng: “Đặc điểm có
sông nước, có cát bồi là chung cho tất cả những làng xóm định cư theo dọc bờ
sông, ở đâu có đặc điểm ấy đều có thể thay tên địa phương mình vào lời ca dao”:
“Nước Thổ Hà vừa trong vừa mát
Đường
Vạn Vân lắm cát dễ đi”.
(Hà
Bắc)
và:
“Nước Trịnh Thôn vừa trong vừa
mát
Đường
Trịnh Thôn lắm cát dễ đi”.
(Thanh
Hoá)
và: “Nước Ngọc Sơn vừa trong vừa mát
Đường
Nam Giang lắm cát dễ đi ”.
(Nghệ
An)
Trong ca dao hiện đại, hiện tượng
trùng lặp này cũng xuất hiện nhưng ít hơn hẳn. Có thể lý giải điều này với những
nguyên nhân sau: Thứ nhất, vì khối lượng ca dao hiện đại ít hơn nhiều so với ca
dao cổ truyền. Thứ hai, do ca dao hiện đại mang tính lịch sử nên ít có hoặc
không có sự trùng lặp giữa địa danh này với địa danh khác.
Có
thể nhận thấy, trong ca dao hiện đại vẫn cùng một kết cấu có sẵn, nhưng để có
thể thay tên địa phương khác vào thì tác giả dân gian buộc phải thay đổi cách
miêu tả, thay đổi cả những chiến công lịch sử nữa. Đây là đặc điểm rất khác biệt
so với không gian nghệ thuật trong ca dao truyền thống. Chẳng hạn:
-
“Hoan hô du kích Bắc Giang
Đã
vác đòn gánh mà phang quân thù
Quấy
rối đột kích lu bù
Cắt
dây điện thoại, địch tru tréo trời ”.
-
“Hoan hô du kích Bắc Ninh
Mìn
nổ đánh uỳnh diệt đứt ba xe
Cổ
Giang, Trung Chính, Trịnh Khê
Đánh
cho quân giặc bò lê bò càng”.
-
“Hoan hô du kích Phúc Yên
Đánh
mấy đêm liền đạp bảy tháp canh
Yên
Lãng, Đa Phúc, Đông Anh
Phản
động nộp súng, lưu mạnh nộp mình”.
Bên cạnh trường hợp có thể thay thế địa
danh phù hợp với những chiến công lịch sử riêng như đã nêu trên, trong ca dao
hiện đại còn xuất hiện những trường hợp không gian mang tính cá biệt hóa cao.
Không gian này được biểu hiện ở những lời ca dao miêu tả, tường thuật lại những
chiến công lịch sử, những trận thắng oai hùng của dân tộc ta trong những năm
kháng chiến. Đó là không gian Điện Biên-
mảnh đất anh hùng đã ghi dấu mốc son chói lọi trong lịch sử của đất nước:
-
“Súng vang trên khắp chiến trường
Điện
Biên súng đã mở đường tiến công”
- “Cây lúa thơm lấn vành đai trắng
Thêm
ngô khoai để thả quân thù
Điện
Biên quân giặc thua to
Hậu
phương ta cất câu hò tăng gia”.
Đó là Tây Bắc rộn rã mừng vui với những
chiến thắng lẫy lừng của quân và dân ta sau chiến dịch Thu – Đông:
“Mừng
sau hai tháng Thu - Đông
Đánh
miền Tây Bắc chiến công lẫy lừng
Thắng
to vang dậy núi rừng
Xóm
làng trên dưới tưng bừng truyền đi”.
Tây Bắc còn hiện lên với ý nghĩa là địa
danh ghi lại những thất bại thảm hại của giặc Pháp:
“Ai
qua Nà Sản miền Tây
Mà
xem quân Pháp sa lầy khốn nguy
Quân
ta bao bọc bộn bề
Không
hàng thì chết còn gì hỡi Tây”.
Đó là vùng đất Quảng Bình- địa danh đã
để lại những sắc thái ấn tượng trong ca dao hiện đại, là vùng đất sáng ngời
tinh thần chiến đấu và ghi dấu những chiến công oanh liệt:
“Quảng
Bình đất lửa quê tôi
Dòng
sông cồn cát cũng ngời chiến công”
Đó
là Tây Nguyên anh hùng với chiến công diệt Mỹ trên khắp các chiến trường:
“Đẹp
hơn cả cánh Pơ - Lang
Tươi
hơn Kơ- Nốt trên ngàn ngậm sương
Mùa
hoa diệt Mỹ quê hương
Thi
nhau nở rộ chiến trường Tây Nguyên”.
Đó còn là nhà tù Côn Đảo- bằng chứng
cho tội ác tày trời của thực dân Pháp, cũng chính là minh chứng cho lòng căm
thù giặc, là ý chí dũng cảm kiên cường, là lòng yêu nước thiết tha của dân tộc
Việt Nam:
“Xa
xa Côn Đảo nhà tù
Biển
sâu mấy khúc căm thù bấy nhiêu”.
Tóm lại, không gian nghệ thuật mang
tính cụ thể, cá biệt, xác định và xuất hiện một cách dày đặc trong ca dao hiện đại
chính là nét đổi mới, nét khác biệt giữa ca dao hiện đại với ca dao cổ truyền. Đặc
điểm này hoàn toàn phù hợp với hiện thực lịch sử của đất nước. Chúng ta có quyền
tự hào với những chiến công oanh liệt mà quân và dân ta đã dành được trên khắp
các mặt trận trong những năm tháng chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Vì thế,
khi cần ghi lại những chiến công lịch sử đó, thì những tên đất, tên làng sẽ trở
thành những yếu tố độc lập, không thể thay đổi, không thể thêm bớt.
2.2 Không gian gần gũi, bình dị, quên thuộc và không
gian khoáng đạt hùng vĩ
Tiếp nối mạch nguồn của ca dao cổ truyền,
không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại cũng mang những nét bình dị, gần
gũi, quen thuộc. Không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc là những không gian gắn
bó mật thiết với cuộc sống thường nhật của con người Việt Nam Đó là nơi mà họ
sinh ra và lớn lên cùng với những kỷ niệm buồn vui của cuộc đời. Tuy nhiên
không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc trong ca dao truyền thống thường gắn liền
với cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của người dân, còn trong ca dao hiện đại nó
không chỉ gắn với sinh hoạt hằng ngày mà còn gắn liền với công cuộc lao động và
chiến đấu của toàn quân và dân ta. Những
không gian bình dị, gần gũi, quen thuộc mà ta thường bắt gặp trong ca dao truyền
thống cũng như trong ca dao hiện đại là không gian ngôi nhà, căn hầm, phố chợ,
dòng sông, cánh đồng, con đường…
2.2.1 Không gian ngôi nhà, căn hầm
Tìm hiểu những lời ca dao hiện đại đã
được sưu tầm và biên soạn chúng tôi nhận thấy không gian ngôi nhà và căn hầm xuất hiện ở một số lời ca
dao. Chẳng hạn, trong ca dao cổ truyền Nhà vốn là không gian gần gũi, thân thuộc
với những sinh hoạt riêng tư của cuộc sống gia đình:
“Hôm qua anh đến
chơi nhà
Thấy mẹ nằm
võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất
anh thương
Anh đi mua gỗ
đóng giường tám thang
Bốn góc anh dặm
bằng vàng
Nhưng trong lời ca dao hiện đại sau
đây không gian ngôi nhà ấy đã mất hẳn đi tính riêng tư vốn có của nó mà trở
thành không gian xã hội thu nhỏ:
“Hôm qua anh đến
chơi nhà
Thấy mẹ dệt vải
thấy cha đi bừa
Thấy nàng mải miết
xe tơ
Thấy cháu i tờ ngồi
học bi bô
Thì ra vâng lệnh
cụ Hồ
Cả nhà yêu nước
thi đua phen này”.
Không gian ngôi nhà trong lời ca dao
trên rõ ràng là không gian mang tính xã hội hóa rất cao. Trong ngôi nhà đó các
thành viên của gia đình cùng tích cực thực hiện hoạt động thi đua yêu nước. Đây
là điểm mới của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại so với ca dao cổ
truyền. Bên cạnh không gian ngôi nhà, ta còn thấy xuất hiện không gian căn hầm nơi
trú ẩn yên bình của mỗi gia đình trước những làn mưa bom đạn của kẻ thù. Những
căn hầm ấy giờ đây cũng là nơi diễn ra mọi hoạt động mang tính xã hội của con
người. Đó là những căn hầm che chở, nuôi dấu những người con Cách mạng:
“Nhà tôi bố mẹ
tôi làm
Nay tôi dỡ xuống
lát hầm thênh thang
Hầm tôi sạch sẽ
đàng hoàng
Họp đoàn, họp đội
hai hàng song song
Một mai nêu có
cưới chồng
Hầm này hai họ
vào trong cũng vừa
Hầm tôi chẳng ngại
gió mưa
Bom bi, róc -
két vẫn trơ hầm này
Có đoàn bộ đội
qua đây
Mẹ con tôi đã
nhường ngay cả hầm
Đánh Mỹ dù đán mấy
năm
Đã có chiếc hầm
tôi chẳng ngại chi
Tay cày tay súng
đi về
Giữ làng giữ nước
mọi bề đảm đang”.
Có thể nói không gian ngôi nhà và căn
hầm trong những lời ca dao hiện đại trên đã thiên về không gian xã hội. Đây là
một đặc điểm mới mà khi nghiên cứu không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại
ta không thể bỏ qua.
2.2.2 Không
gian chợ
Bên cạnh không gian ngôi nhà và căn hầm,
thì chợ là một trong những không gian được nhắc tới khá nhiều trong ca dao hiện
đại. Tuy nhiên, vì gắn liền với hiện thực xã hội mà không gian chợ trong ca dao
hiện đại cũng có sự thay đổi rất nhiều so với ca dao cổ truyền. Nếu như trong
ca dao xưa, chợ là không gian diễn ra việc mua bán, trao đổi, là nơi để người
dân lao động, đặc biệt là các nam thanh, nữ tú gặp gỡ làm quen và trò chuyện với
nhau:
“Anh hai buông
áo em ra
Để em đi chợ kẻo
mà chợ trưa
Chợ trưa rau đó
héo đi
Lấy gì nuôi mẹ,
lấy gì nuôi em”.
Thì thật thú vị, khi nhắc đến ca dao
hiện đại, chợ đều được nhắc tới vai trò là nơi kiểm tra việc học chữ quốc ngữ,
diệt giặc dốt của nhân dân ta:
“Hôm qua đi chợ
đường xa
Thấy người mũ chữ
chui qua cổng mù
Nàng ơi một chữ
i tờ
Sao nàng không học
để mà phải chui…”
hay:
“Người ta đi chợ
thì vui
Tôi nay đi chợ
những chui cùng luồn
Còn trời, còn nước,
còn non
Còn chưa biết chữ
thì còn phải chui”.
Không gian chợ được mô tả khá chân thực
với những cổng mù để người chưa biết chữ phải chui qua hoặc phải nộp tiền mới được
vào. Vì thế mới có cảnh:
“Người thông đến
chợ vô liền
Người dốt đến chợ
nộp tiền mới vô
Chữ không có phấn
có hồ
Mà sao khéo điểm,
khéo tô mặt người”.
hay:
“Anh ơi! bỏ nón
tôi ra
Để tôi đi chợ kẻo
mà chợ trưa
Chợ trưa thì mặc
chợ chưa
Ai chưa biết chữ
thì chưa cho vào ”.
Cũng như không gian ngôi nhà, căn hầm không
gian chợ cũng là không gian quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của con người.
Tuy nhiên trong ca dao hiện đại, không gian này có sự thay đổi về chất. Nó
không chỉ là nơi buôn bán, gặp gỡ của mọi người mà còn là nơi thể hiện rõ nhất
nét riêng biệt của thời đại– khi mà đất nước ta thực hiện chính sách xóa nạn mù
chữ cho toàn dân.
2.2.3 Không gian dòng sông
Không gian dòng sông là một hình ảnh rất
gần gũi, thường xuyên xuất hiện trong ca dao. Tuy nhiên do hiện thực lịch sử
thay đổi nên các phương diện thể hiện về tính bình dị, gần gũi, thân quen của
không gian dòng sông trong ca ca dao truyền thống và ca dao hiện đại cũng có sự
khác biệt. Nếu như không gian dòng sông
trong ca dao truyền thống thường gắn liền với những tâm tư tình cảm, nỗi
niềm buồn nhớ của những người con gái lấy chồng xa quê:
“Chiều chiều ra
đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ
mà không có đò”.
Hay sự cách trở, chia lìa của những
đôi trai gái yêu nhau say đắm mà không thể đến được với nhau:
“Cách sông em chẳng
sang đâu
Anh về mua chỉ bắc
cầu em sang
Chỉ xanh, chỉ đỏ,
chỉ vàng
Một trăm thứ chỉ
bắc ngang sông này”.
Thì đến ca dao hiện đại, không gian
dòng sông lại gắn liền với niềm tin, sự gắn bó thủy chung của con người với con
người. Trước tiên, đó là sự gắn bó thủy chung giữa tình yêu nam nữ:
“Hai con sông nước
mênh mông
Nhà em sông Hậu
nhà anh sông Tiền
Cách nhau một dải
đất liền
Hai con sông nước
chảy riêng hai dòng
Ta cùng uống nước
Cửu Long
Nước sông càng
ngọt, lúa đồng càng xanh
Dù em cách trở
xa anh
Cách trăm quả
núi cùng nghìn con sông
Chúng ta một dạ
một lòng
Mối thù đế quốc
ta đồng chung lo
Cùng nhau xây dựng
cơ đồ
Nước nhà hết giặc
bây giờ mới yên”.
Ngoài
ra, đó còn là sự gắn bó thâm tình của tình quân dân:
“Bên tê sông mẹ
trong còn vời vợi
Bên này sông ruột
con chói tựa kim châm
Cha đời quân cấm
chợ ngăn sông
Đố bay ngăn được
tình quân dân ruột già ”.
Bên cạnh đó dòng sông giờ đã trở thành
chiến trường, là mồ chôn quân giặc, là nơi ghi dấu những chiến công chói lọi của
quân và dân ta:
“Mỗi lần giặc
ngược sông Lô
Là bao xác giặc
thành mồ bên sông
Căm thù giết giặc
lập công
Lại bao chiến sĩ
anh hùng nêu gương”.
Trong ca dao hiện đai không gian dòng
sông chủ yếu hiện lên là không gian xã hội,
không gian công cộng. Không gian dòng sông trong ca dao hiện đại là nơi
chứng kiến biết bao hoạt động vất vả của quân và dân ta cho cuộc kháng chiến:
“Tay chèo nhẹ
khoả sóng trăng
Đưa đoàn chíến
sĩ qua sông đêm này…”
hay:
“Đêm nay trong
ánh trăng vàng
Thuyền em tải đạn
nhẹ nhàng vượt sông”.
Không gian dòng sông cũng là nơi chứng
kiến những cuộc chia tay đầy lưu luyến, thắm đượm tình nghĩa quân dân, tình yêu
đôi lứa hoà quyện trong tình yêu quê hương đất nước:
“Ba phen đưa về
quốc đoàn
Bến sông ở lại gửi
chàng câu thơ
Câu thơ ba bốn
câu thơ
Câu đợi, câu chờ,
câu nhớ, câu thương”.
hay:
“Đò em đợi bến
sông này
Đưa đoàn chiến
sĩ đêm nay lên đường
Đò em chở bạn
tình thương
Chở lòng yêu nước
can trường qua sông”.
Và
dòng sông cũng chính là nơi sum họp, đoàn tụ trong cảnh thanh bình, hạnh phúc:
“Hôm đi thuyển bến
nặng chờ
Hôm về thuyền bến
câu hò lại vang”.
hay:
“Anh đi ra tận
chiến trường
Ngày về xin hẹn
Sông Thương dừng chèo”
Có thể nói, dòng sông không còn là nơi
chất chứa những giọt nước mắt cay đắng, tủi hờn của người mẹ phải xa con, vợ phải
xa chồng của những kiếp người đau khổ bất hạnh như xưa nữa, mà giờ đây không
gian dòng sông gắn với niềm tin, sự thủy chung, đợi chờ của con người trong xa
cách, là nơi ghi lại những chiến công oanh liệt, là nơi diễn ra các hoạt động
phục vụ kháng chiến của toàn đân tộc. Đó chính là không gian gần gũi, gắn bó với
con người trong đời sống lao động cũng như trong chiến đấu.
2.2.4 Không
gian cánh đồng
Không gian cánh đồng cũng được nhắc tới
rất nhiều trong ca dao hiện đại. Tuy nhiên do sự thay đổi của hiện thực lịch sử
mà không gian cánh đồng trong ca dao hiện
đại cũng có những nét khác biệt so với không gian cánh đồng trong ca dao
cổ truyền. Nếu như trong ca dao cổ truyền không gian cánh đồng được hiện lên với
tất cả những nỗi vất vả nhọc nhằn của người nông dân :
Cày đồng đang buổi
ban trưa
Mồ hôi thánh
thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát
cơm đầy
Dẻo thơm một hạt
đắng cay muôn phần,
Thì trong ca dao hiện đại không gian
cánh đồng là nơi diễn ra các hoạt động lao
động tập thể. Ở đó người nông dân vừa thi đua sản xuất, vừa chuyện trò,
ca hát cho với đi nỗi vất vả của công việc đồng áng:
“Bên này các chị
đi cày
Giục trâu hối hả
suốt ngày chưa thôi
Bên kia lúa biếc
chân đồi
Các cô làm cỏ
nói cười râm ran”.
Cánh đồng còn là nơi ghi dấu tội ác của
quân giặc và sự căm hờn muôn đời của nhân dân Việt Nam đối với chúng:
“Nhìn đàn cò trắng
bay qua
Nhìn đồng lúa ở
quê nhà héo hon
Xung quanh đồng
lúa những đồn
Lúa héo bao ngọn
căm hờn bấy nhiêu
Đêm nay sóng lúa
rào rào
Hạ đồn lúa dậy vẫy
chào đoàn quân ”.
Đồng thời cánh đồng cũng là nơi ghi lại
những nỗi đau chiến tranh cùng những mất mát lớn lao của con người. Thật xúc động
biết bao trước tâm sự của một người con mất mẹ- mất đi người thân yêu nhất của
mình:
“Trận bom giặc
trút xuống đồng
Mẹ tôi đi gặt đã
không trở về
Mẹ ơi đau đớn ê
chề
Lúa bầm máu mẹ,
con tê tái lòng
Nấm mồ của mẹ giữa
đồng
Đêm qua bom giội
lại không còn mồ
Khóc nhiều nước
mắt đã khô
Lòng con đau xé
căm thù cháy gan
Vì quân giặc Mỹ
dã man
Mẹ tôi phải chết
hai lần đớn đau
Mẹ ơi oán nặng
thù sâu
Giết trăm tên Mỹ
vơi đâu oán thù”.
Tóm lại, không gian cánh đồng được nhắc
tới trong ca dao hiện đại là một trong những không gian bình dị, gần gũi, quen
thuộc với cuộc sống con người Việt Nam.
Đây là sự kế thừa từ đặc điểm không gian nghệ thuật trong ca dao cổ truyền.
Tuy vậy, nét bình dị, gần gũi của không gian cánh đồng trong ca dao hiện đại
cũng được thể hiện khác biệt so với
không gian cánh đồng trong ca dao truyền thống.
2.3 Không gian khoáng đạt, hùng vĩ
Bên cạnh không gian bình dị, gần gũi,
quen thuộc với cuộc sống con người, tìm hiểu ca dao hiện đại ta còn bắt gặp nhiều
không gian khoáng đạt, hùng vĩ, mang tầm vóc và vẻ đẹp của vũ trụ như Núi Thái
Sơn, nước Nam Hải, nước trong nguồn, dải Trường Sơn, nước Cửu Long, muôn dặm
trùng dương, mặt trăng, mặt trời… Nếu như ca dao cổ truyền mượn những không
gian mang sắc thái lớn lao, bền vững của vũ trụ để so sánh với tình cảm con người,
đặc biệt với công lao trời biển của cha mẹ:
- “Ngó lên trời,
trời cao lồng lộng
Ngó xuống đất, đất
rộng mênh mông
Biết rằng chừ cá
gáy hoa rồng
Đền công ơn cha
mẹ lao tâm sinh thành”.
- “Công cha như
núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ
kính cha
Cho tròn chữ hiếu
mới là đạo con”.
Hay những cặp từ chỉ không gian sóng
đôi như: đất- trời, sông- núi, biển- rừng… giúp con người chỉ trời vạch đất, thề
nguyền, ước hẹn:
- “Rủ nhau xuống
bể mò cua
Đem về nấu quả
mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã
từng
Non xanh nước bạc
ta đừng quên nhau”.
- “Non non nước
nước khơi chừng
Ái ân đôi chữ
xin đừng có quên”,
Thì nay, trong ca dao hiện đại do hiện
thực lịch sử xã hội mới nên những cặp không gian sóng đôi và những không gian
mang sắc thái lớn lao, bền vững ấy lại được dùng đề so sánh với công lao vĩ đại
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Như chúng ta
đã biết, trong tâm tưởng mỗi người dân Đảng cộng sản Việt Nam vừa gần
gũi, vừa thân thương:
“Nước trong nguồn
chảy ra mãi mãi
Cây trên rừng vạn
đại Trường Sơn
Đảng thương dân
như mẹ thương con
Nói sao cho hết
được công ơn Đảng mình”
vừa thiêng
liêng, cao quý:
“Ta quý gì bằng
ta quý Đảng
Mặt trăng, mặt
trời cho ta ánh sáng
Đất ruộng trâu
cày thì Đảng cho ta”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta
luôn vững tin vào sự chiến thắng của cuộc kháng chiến trường kỳ:
“Dải Trường Sơn
xanh rờn thăm thẳm
Công ơn Đảng lao
động muôn dặm trùng dương
Vững lòng tin
quân dân ta chiến đấu quật cường
Có Đảng cầm sào
đứng mũi dẫn đường đấu tranh”.
Công
lao của Đảng là không gì so sánh nổi:
“Đếm sao cho hết
là rừng
Đo sao cho hết
được lòng Đảng ta
Trời cao biểu rộng
bao la
Rộng sao bằng Đảng
cho ta chủ quyền
Ngầm ngày rồi lại
ngẫm đêm
Nghĩ nhờ ơn Đảng
mới nên áo lành”.
Bên cạnh việc ca dao hiện đại sử dụng
các cặp không gian sóng đôi và những không gian mang sắc thái lớn lao, bền vững
để so sánh với công lao to lớn của Đảng thì những cặp không gian ấy cũng được
dùng để ca ngợi công lao của Bác Hồ- vị lãnh tụ kính yêu, vị cha già của dân tộc
Việt Nam. Công ơn Bác Hồ đối với nhân dân ta như biển rộng trời cao, không thể
nào kể hết. Nhân dân ta ví tình thương của Bác như mạch nước trong nguồn trong
mát chảy mãi muôn đời:
“Nước trên nguồn
chảy ra mãi mãi
Cây trên rừng vạn
đại Trường Sơn
Cụ Hồ thương dân
như mẹ thương con
Nói sao cho hết
công ơn biển trời”.
Dù biển Nam Hải có sâu chừng nào, dải
Trường Sơn có dài rộng bao nhiêu cũng vẫn không sao sánh bằng công ơn to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Ơn Bác Hồ to
hơn Nam Hải
Công Bác Hồ to
hơn dải Trương Sơn
Nam Hải sâu ta
còn đo được
Trường Sơn dài
ta cũng vượt qua
Công ơn của Bác
bao la
Nhân dân kể đến
bao giờ cho xong”.
Cùng với ý nghĩa biểu tượng cho hình ảnh
của Đảng, Bác Hồ, những không gian khoáng đạt, hùng vĩ ấy còn được dùng để nhấn
mạnh quyết tâm chiến đấu, sức mạnh đoàn kết và tấm lòng son sắc của toàn thể
dân tộc Việt Nam:
- “Cho dù tát cạn
biển Đông
Cho dù đếm được
chim muông trên rừng
Cho dù san phẳng
Trường Sơn
Bác ơi cháu chỉ
sắt son một lòng
Đấu tranh thống
nhất non sông
Giấc ngàn thu
thoả ước mong Bác Hồ”.
- “Đố ai quét sạch lá rừng
Đố ai ngăn nổi sức
toàn dân ta
Toàn dân ta muôn
người một dạ
Cùng đứng lên tất
cả như nhau”.
Có thể thấy rằng, vẫn là sự kế thừa những
thành tựu của ca dao cổ truyền nhưng tác giả dân gian đã đưa vào ca dao hiện đại
những không gian nghệ thuật khoáng đạt, hùng vĩ nhưng với những nét khác lạ, độc
đáo. Nét khác lạ độc đáo đó chính là việc sử dụng những cặp không gian sóng đôi,
mang sắc thái lớn lao bền vững để so sánh với công lao to lớn của Đảng, Bác Hồ
và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
2. 3 Không gian mới lạ
Trong ca dao hiện đại cũng có rất nhiều
không gian chưa từng gặp hoặc rất hiếm khi thấy xuất hiện trong ca dao cổ truyền.
Lời ca dao sau là một minh chứng cụ thể:
“Đi từ tháng
chín hăm ba
Mười chín tháng
chạp trải qua bao đường
Đi thông khắp
các chiến trường
Đồng bằng, biên
giới đến đường Điện Biên
Đi vào xí nghiệp
chủ quyền
Nông thôn cải
cách chợ phiên rộn ràng
Đi vào trường học
thênh thang
Nhà thương lộng
lẫy, không gian tràn trề
Bước đi khắp nẻo
đồng quê
Người người hoan
hỉ, nghề nghề phồn vinh”.
Thật khó có thể tìm thấy trong ca dao
cổ truyền một lời ca lại có không gian nghệ thuật mới lạ như thế. Đọc lời ca
dao ta có cảm giác như cả dải đất Việt Nam
đang hiện ra trước mắt. Từ đồng bằng, trung du đến miền núi, từ nông
thôn đến thành thị, từ miền xuôi lên miền ngược, đâu đâu cũng khang trang, mới
mẻ. Chỉ một vài câu thơ, tác giả dân gian đã vẽ ra biết bao không gian: con đường,
chiến trường, đồng bằng, biên giới, xí nghiệp, nông thôn, chợ phiên, trường học,
nhà thương… Lời ca dao đã thể hiện một đặc
điểm cơ bản của không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại- không gian nghệ
thuật mới lạ, mang tính xã hội hoá cao.
2.3.1. Không gian lớp học bình dân
Như trên đã nói, trong ca dao hiện đại xuất hiện rất
nhiều không gian chưa từng gặp hoặc hiếm khi xuất hiện trong ca dao cổ truyền.
Không gian lớp học bình dân là một ví dụ điển hình.Không gian lớp học bình dân được
dựng lên ngay giữa ruộng đồng, hay bên một
gốc đa. Đây là nơi mà bà con cùng nhau học chữ quốc ngữ, thi đua diệt giặc dốt
để cuộc đời này thêm ý nghĩa, thêm no ấm:
“Lớp bình dân mở
không xa
Cách một lối rẽ
cách ba dặm trầu
Đằng trước nương
dâu
Đằng sau ruộng mạ
Ta học quốc ngữ
cho thông
Kẻo mà hổ thẹn
cùng chồng ai ơi!”.
hay:
“Cây đa bóng mát
vây tròn
Phên thay chữ mới,
vôi còn khoe tươi
Cây đa lớp học
đông người
Bình công chấm
điểm dịch đôi câu vần
Khó khăn xin chớ
ngại ngần
Quên mình lao động
thêm phần ấm no”.
Không gian lớp học bình dân là một
trong những không gian nghệ thuật mới chưa được nhắc tới trong ca dao cổ truyền.
Sự xuất hiện của không gian nghệ thuật này là hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi
của hoàn cảnh xã hội, khi mà Đảng và nhà nước có chủ trưong xóa nạn mù chữ
trong nhân dân. Vì thế mà phong trào thi đua học chữ quốc ngữ diệt giặc dốt và
mở mang dân trí diễn ra một cách sôi nổi ở khắp mọi nơi.
2.3.2. Không gian chiến trường, sa trường, thao trường
Không gian chiến trường được khắc họa
đậm nét trong ca dao hiện đại. Khung cảnh chiến trường được hiện lên với cuộc sống
chiến đấu gian khổ và thiếu thốn của những người lính:
“Mười năm gian
khổ có nhau
Quên sao ống muối,
quên sao rau rừng…”
Nhưng dù cuộc sống nơi chiến trường vất
vả đến đâu thì những người lính cụ Hồ vẫn chiến đấu anh dũng để tô đẹp thêm
truyền thống quê hương:
“Mấy năm ở chốn
phong ba
Sống trong khói
lửa nên da tôi vàng
Bao phen quân địch
kinh hoàng
Ghê danh Quảng
Trị lên đường đấu tranh”.
Và không gian chiến trường còn được khắc
hoạ qua tiếng súng tấn công, tiếng súng báo hiệu những ngày vui chiến thắng
đang đến rất gần:
“Súng vang trên
khắp chiến trường
Điện Biên súng
đã mở đường tiến công…”
Trong quan niệm của nhân dân ta lúc bấy
giờ chiến trường, sa trường là nơi tương phùng, hội ngộ của các chàng trai, là
nơi tỏ chí nam nhi và thể hiện tinh thần yêu nước:
“Mẹ khuyên con mẹ
ra đi
Sa trường là chốn
nam nhi vẫy vùng
Là trường thi của
anh hùng
Là nơi hội ngộ
tương phùng bạn trai”.
Bên cạnh đó chiến trường, sa trường cũng
trở thành không gian của tiêu chí đạo đức
thẩm mĩ. Một chàng trai lý tưởng trong con mắt của các cô gái những năm kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ phải là con người đã từng lăn lộn, nếm trải mùi đạn
bom chốn sa trường:
“Anh ơi! ra trận
giết tây
Xung phong cướp
súng về đây cho nhiều
Lấy em, em thách
mấy điều
Chiến công oanh
liệt bắt nhiều tù binh”.
hay
“Dù anh văn hoá
lớp mười
Anh chưa ra trận
em thời không yêu
Dù anh sắc sảo mỹ
miều
Nếu không ra trận
không yêu làm chồng”.
Ca dao hiện tại còn khắc hoạ khung cảnh
thao trườn- nơi quân và dân ta tập kỹ thuật, chiến thuật để sẵn sàng chiến đấu
chống quân thù:
“Một hai hai một
thao trường
Bò, lê ngắm bắn,
mọi đường tinh thông ”
Sự xuất hiện của không gian chiến trường,
sa trường, thao trường là một điểm mới của không gian nghệ thuật trong ca dao
hiện đại. Tìm hiểu những không gian nghệ thuật này ta có thể thấy được quan niệm
đạo đức thẩm mỹ của con người trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, thấy được
hình ảnh những con người sống có lý tưởng, tràn đầy tinh thần yêu nước và sẵn
sàng đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.
2.3.3. Không gian tiền tuyến - hậu phương
Trong hoàn cảnh đất nước có chiến
tranh, những người con trai ra trận chiến đấu, người con gái trở về tiếp tục
công việc lao động, sản xuất nơi quê nhà. Vì thế mà không gian nghệ thuật trong
ca dao hiện đại bắt đầu được phân chia thành hai tuyến: không gian tiền tuyến
(người ra đi) và không gian hậu phương (người ở lại). Trong ca dao cổ truyền, cặp
không gian này đã từng xuất hiện nhưng chiếm số lượng ít và chủ yếu gợi ra sự
chia lìa, cách trở nghìn trùng giữa người ra đi và kẻ ở lại:
“Anh đi theo
chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc
mà thương mẹ già”
Đến ca dao hiện đại, cặp không gian tiền
tuyến- hậu phương xuất hiện đậm nét hơn.
Tiền tuyến là nơi mà toàn quân đang trực tiếp chiến đấu và chiến thắng kẻ thù,
còn hậu phương là nơi mà toàn dân ta ra sức thi đua sản xuất để phục vụ tốt nhất
cho tiền tuyến. Sự đồng cảm, sẻ chia, động viên nhau, khích lệ nhau vì mục đích
chung, lý tưởng chung đã nối gần khoảng cách giữa tiền tuyền với hậu phương, giữa
người đi và kẻ ở lại:
“Giấc trưa trời
nắng chang chang
Em đi cắt lúa
lang thang giữa đồng
Em nguyện cắt
lúa nuôi chồng
Trọn niềm chung
thuỷ tấm lòng chẳng phai
Anh thì bổn phận
làm trai
Ra đi giúp nước
một mai thái bình
Em đi cắt lúa một
mình
Cũng vì nhiệm vụ
gia đình thiếu anh
Đêm khuya giặc bắn
cầm canh
Em nằm phòng vắng
nhớ anh mỏi mòn
Anh đi nhiệm vụ
chưa tròn
Một ngày dân tộc
hãy còn đau thương
Nên anh còn ở
chiến trường”.
Cả người đi diệt thù và người ở lại
tăng gia sản xuất đều thấu hiểu sâu sắc vai trò, nhiệm vụ của mình đối với vận
mệnh của đất nước. Vì thế mà:
“Mồ hôi đổ xuống
ruộng bờ
Mới thành hạt
lúa đổ kho lần này
Chiến trường bộ
đội giết Tây
Hậu phương xin gửi
kho đầy lúa thơm ”
Như vậy, do ra đời trong hoàn cảnh lịch
sử mới của đất nước, ca dao hiện đại đã xây dựng lên cặp không gian tiền tuyến-
hậu phương để phản ánh đời sống lao động và chiến đấu hết sức khẩn chương của
quân và dân ta trong một thời kỳ lịch sử vĩ đại, hào hùng. Đây là một không
gian nghệ thuật mới, tạo được nét riêng biệt và hấp dẫn cho bộ phận ca dao hiện
đại.
2.3.4. Không gian công trường, bệnh viện
Không gian công trường hiện lên trong
ca dao hiện đại với không khí nhộn nhịp khẩn trương- nơi ấy những con người mới
đang vượt qua mọi gian nan thử thách cống hiến sức mình cho công cuộc xây dựng
kiến thiết đất nước ngày càng giàu mạnh:
“Tầng cao cao
ngút lưng trời
Xe lên lên mãi
như đời đang lên
Xe lăn rầm rập
ngày đêm
Chở đoàn thợ mỏ
vào tim đất này”
hay:
“Rầm rầm đá chuyển
Bụi bay như mây
Tầng tầng đá lở
dưới tay
Em đi dựng những
đường ray xuyên rừng
Ở dây rừng tối mịt
mùng
Mắt em đã thấy
sáng bừng điện soi
Bà Nữ Oa xưa đội
đá vá trời
Giờ em đi phá
núi nối những chân trời tương lai”.
Còn đây là khung cảnh bệnh viện với những
con người luôn hết lòng cứu chữa và tận tình chăm sóc bệnh nhân:
“Về đây điều trị
mấy tuần
Cái đau cái yếu
mười phần còn ba
Về đây như thể ở
nhà
Có em săn sóc
như là người thân…
Có người ra viện
hôm nay
Tặng cô y tá sổ
tay của mình”.
Ngoài ra trong ca dao hiện đại ta còn
thấy xuất hiện những không gian khác như: Nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, trại
chăn nuôi… Đây là những không gian mới mà chỉ đến khi tìm hiểu ca dao hiện đại
ta mới bắt gặp.
C.
KẾT LUẬN
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đất nước
đã có nhiều thay đổi, ca dao hiện đại chính là tấm gương phản chiếu trung thành
và sâu sắc hiện thực nóng bỏng của cuộc chiến tranh kéo dài gần một thập kỷ. Để
hoàn thành sứ mệnh ấy của mình, ca dao hiện đại không chỉ đổi mới về nội dung
mà còn đổi mới cả về thi pháp. Ở mỗi một thời kỳ lịch sử, ca dao hiện đại mang
những được diện mạo khác nhau. Có thể thấy rằng, với lực lượng sáng tác đông đảo
cùng hình thức lưu truyền phong phú, ca dao hiện đại đã ra đời và phát triển mạnh
mẽ trong đời sống nhân dân. Nó đã góp phần không nhỏ trong việc cổ vũ tinh thần
chiến đấu, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, ca ngợi cuộc sống lao động, sản
xuất của toàn quân và dân ta. Bên cạnh đó, còn không ít lời ca dao đang được
lưu truyền trong sinh hoạt của quần chúng mang nội dung hài hước, châm biếm…
góp phần giáo dục một cách sâu sắc con người hiện nay.
Qua những nghiên cứu bước đầu về không
gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại, chúng ta có thể thấy không gian nghệ thuật
trong ca dao hiện đại vừa mang những nét chung của ca dao truyền thống, vừa có
những nét riêng, độc đáo đặc thù. Ca dao hiện đại vẫn xây dựng không gian nghệ
thuật mang tính phiếm chỉ như trong ca dao truyền thống. Đó là những không gian
không cụ thể, khó xác định và mang những đặc điểm chung nhất, phổ biến nhất của
dải đất nước Viêt Nam như: không gian dòng sông, cánh đồng, con đường, chiến trường, mặt trận....
Song ca dao hiện đại chủ yếu phản ánh lịch sử của đất nước nên một số tên địa
phương đã được cá biệt hóa, và trở thành yếu tố độc lập trong lời ca.
Trong ca dao hiện đại ta vẫn thấy xuất
hiện những không gian nghệ thuật đã trở thành truyền thống của ca dao xưa- đó
là không gian bình dị, gần gũi, thân thuộc với cuộc sống người dân đất Việt.
Nhưng vì ra đời trong hiện thực lịch sử xã hội mới, quan niệm thẩm mỹ của chủ
thể sáng tạo mới nên tính chất của không gian ấy cũng có sự thay đổi ít nhiều. Bên
cạnh đó, không gian khoáng đạt, hùng vĩ mang tầm vóc và vẻ đẹp của vũ trụ cũng được
ca dao hiện đại sử dụng khá đậm nét. Đặc điểm này cũng tạo ra sự thay đổi đáng
kể so với ca dao cổ truyền. Nếu như trong ca dao cổ truyền dùng những không
gian khoáng đạt, hùng vĩ mang tầm vóc và vẻ đẹp của vũ trụ để so sánh với công
lao sinh thành của cha mẹ, với những lời thề thủy chung son sắt của nam nữ
trong tình yêu, thì những không gian ấy trong ca dao hiện đại lại dùng để khẳng
định sự đoàn kết và quyết tâm chiến đấu
của toàn dân tộc, đặc biệt để ngợi ca công ơn to lớn của Đảng, Bác Hồ. Trong ca
dao hiện đại ta thấy có sự xuất hiện của các không gian mới mang tính xã hội
hóa cao mà hiếm khi xuất hiện trong ca dao cổ truyền như: Không gian trường học,
nhà máy, xí nghiệp, công trường, bệnh viện, chiến trường, tiền tuyến- hậu
phương… Sự biến đổi của không gian nghệ thuật trên là kết quả tất yếu của sự
thay đổi hiện thực lịch sử và cảm hứng sáng tác của các chủ thể sáng tạo văn học
dân gian hiện đại nói chung và ca dao hiện đại nói riêng.
Về phía người nghiên cứu, với đề tài
đã thực hiện tốt các luận điểm đặt ra cũng như nêu bật được những đặc điểm của
không gian nghệ thuật trong ca dao hiện đại. Đó còn là nguồn tư liệu phong phú
phục vụ cho việc giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên khi tìm hiểu
về ca dao hiện đại. Bên cạnh đó đề tài sẽ là gợi ý mới cho những ý tưởng đi sau
khi tìm hiểu và nghiên cứu về ca dao hiện đại.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Nghĩa dân, “Ca dao Việt Nam
1945- 1975 (745 lời)”, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997.
2. Cao dao chiến sĩ (tập 5), NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 1975.
3. Lê Thị Hạnh, “Ca dao- tục ngữ Việt Nam”,
NXB Lao Động xã hội, 2005.
4. Trần Đình Sử, “Thi Pháp học”, NXB Giáo dục,
1998.
5. Giáo trình “Thi pháp văn học dân
gian” của TS. Nguyễn Khác Sinh (Đại học Đà Nẵng)
Out Of Topic Show Konversi KodeHide Konversi Kode Show EmoticonHide Emoticon